Định kiến giới trong ngôn ngữ báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay

báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Vấn đề quan trọng
Báo chí, với tư cách nhân tố tạo dư luận, đồng thời dẫn dắt, chi phối dư luận xã hội, có vai trò to lớn trong việc góp phần ổn định, tăng cường đồng thuận xã hội, từ đó nâng cao ý thức và cải thiện nhận thức về định kiến giới. Trong các loại hình báo chí, báo mạng điện tử, với những ưu điểm nổi bật như phi tuyến tính, khả năng truy cập thông tin không giới hạn và sức lan tỏa mạnh mẽ giúp thay đổi định kiến giới trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Song song với những nỗ lực không ngừng nghỉ, định kiến giới vẫn tồn tại âm thầm trong báo chí dưới nhiều hình thức tinh vi, phức tạp. Định kiến giới càng trở nên nguy hại khi chúng “ăn sâu” vào những người làm báo và nhà quản lý cơ quan báo chí, tác động lệch lạc đến tư duy tác nghiệp và thể hiện qua nội dung, chi tiết hay ngôn ngữ báo chí, từ đó, truyền tải thông tin hàm chứa định kiến giới đến công chúng. Trong đó, báo mạng điện tử là “môi trường” lý tưởng cho những sản phẩm, tác phẩm báo chí mang định kiến giới sinh sôi, phát triển.
Để có đánh giá khoa học, khách quan về định kiến giới trong ngôn ngữ báo mạng điện tử, một khảo sát được thực hiện trong thời gian từ 01.06.2019 đến 31.12.2019 trên bốn (04) tờ báo, tạp chí điện tử bao gồm: VnExpress, Zing News, Vietnamplus và Phụ nữ Việt Nam. Những tác phẩm được khảo sát thuộc hai chuyên mục:
(1) Pháp luật– thông tin chính xác, rõ ràng, khách quan và góp phần hình thành nhận thức đầy đủ của công chúng về quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật;
(2) một chuyên mục có hàm lượng thông tin về giới cao thuộc từng báo (chuyên mục Đời sống của VnExpress; Zing News Vietnamplus; và chuyên mục Yêu của Phụ nữ Việt Nam) – thông tin xoay quanh mối quan hệ giữa các cá nhân trên cơ sở giới trong đời sống thường nhật, đây cũng là loại thông tin phổ biến, nhiều tính giải trí, thường được sản xuất và đón nhận một cách cảm tính, ít chịu sự ràng buộc bởi tính chính xác, khách quan.

Nội dung định kiến giới trong ngôn ngữ báo mạng điện tử thuộc những sản phẩm báo chí nói trên được định vị và phân loại như sau:
1. Ngôn từ hàm chứa thiên kiến giới - là những ngôn từ có xu hướng áp đặt một số cách nhìn và cách hiểu nhất định về phẩm chất, điều kiện, vai trò của cá nhân trong xã hội dựa trên giới tính.
Bài viết “Các lãnh đạo nữ ‘trị’ Covid-19 tốt hơn?” trên một tờ báo điện tử đã “hé lộ” những đặc điểm khiến các nhà lãnh đạo nữ thành công trong việc “chế ngự” Covid-19: “Các nữ lãnh đạo trên rõ ràng rất khác với các vị tổng thống, thủ tướng của nhiều nước đang thể hiện những cách phản ứng khác nhau với dịch bệnh: đổ lỗi cho người khác, tranh thủ kiếm phiếu bầu…” Dù với thiện ý, bằng cách quy chiếu những đặc điểm lãnh đạo tiêu cực, tham vọng cho nam giới, bài viết đã ngầm “gán ghép” các phẩm chất tích cực cho nữ giới, từ đó hình thành tiêu chuẩn kép mà với những bối cảnh và hình thức triển khai khác, chính những phẩm chất này sẽ trở thành gánh nặng cho người phụ nữ.
2. Ngôn từ hàm ý mặc định, duy trì khuôn mẫu giới - là những ngôn từ có xu hướng mặc định hay duy trì những khuôn mẫu về ngoại hình, hành vi, ứng xử, phẩm chất của cá nhân dựa trên giới tính.
Bài viết với tiêu đề “Tìm ra lý do Hoàng tử William hẹn hò với Kate nhiều năm mãi không chịu kết hôn” trên tờ báo của Phụ nữ, ngay từ tiêu đề, với những từ ngữ: “Hoàng tử William… không chịu kết hôn”, “hẹn hò nhiều năm”, “chịu kết hôn”, “tìm ra lý do”…, bài viết đã khẳng định tư tưởng chủ đạo: cuộc hôn nhân “đến muộn” của Hoàng tử William và Công tước phu nhân Catherine (Kate) và một điều lạ, đáng tò mò và bài viết sẽ “tiết lộ” lý do đằng sau “sự lạ” đó. Tư tưởng trên được tiếp diễn và tái khẳng định qua những câu từ như: “Hoàng tử Anh chần chừ khá lâu mới quyết định kết hôn với Kate dù đã yêu nhau một thời gian khá lâu và gia đình Hoàng gia cũng khá ưng cô gái như Kate.”
Thông qua tiết lộ về chuyện tình cảm của cặp đôi Hoàng gia, bài viết đã sử dụng một loạt ngôn từ với hàm ý mặc định, duy trì một số khuôn mẫu giới rất phổ biến: yêu là phải cưới; yêu lâu chưa cưới là bất thường; người đàn ông luôn nắm vai trò chủ động khi quyết định tiến đến hôn nhân; ngược lại, trước hôn nhân, phụ nữ luôn mong cầu và bị động.

3. Ngôn từ mang ý nghĩa thiên vị hoặc hạ thấp giá trị giới là những ngôn từ có xu hướng thiên vị hoặc hạ thấp đối tượng được đề cập dựa trên một số định kiến hoặc khuôn mẫu giới. Trong bài viết “Hoàng Lê Vi sắp sinh con gái thứ hai” trên một tạp chí điện tử có chi tiết: “Hoàng Lê Vi cho biết, hai lần đầu đi siêu âm, bác sĩ bảo có khả năng là bé trai khiến vợ chồng cô không vui lắm bởi cả hai rất thích con gái”. Dù khó nhận biết, nhưng những chi tiết “khả năng là bé trai… vợ chồng cô không vui”, “cả hai rất thích con gái” đều mang ý nghĩa thiên vị giới. Xuất hiện trên đầu của một tác phẩm báo điện tử (vị trí nổi bật), chi tiết này được xem như điểm nhấn, có hàm ý tán dương sở thích “khác người” của vợ chồng Hoàng Lê Vi – thích sinh con gái. Qua đó, bài viết vô tình chuyển tải sự thiên vị và hạ thấp giới: thích sinh con trai là lẽ thường, trái với thích con gái là điều “bất thường” cần đề cập, nhấn mạnh; những kỳ vọng, phân biệt về giới tính của cha mẹ với con cái “con trai… không vui lắm”, “thích con gái”.
4. Ngôn ngữ hàm ý đổ lỗi cho người bị bạo lực giới là những ngôn từ có xu hướng đổ lỗi cho người bị bạo lực giới thông qua việc đưa ra những phán xét “ngầm” về ngoại hình, phẩm chất, hành vi của họ theo khuôn mẫu giới. Bài viết “17 năm tù cho người chồng đâm vợ tử vong tại bữa nhậu” trên một tờ báo có số người đọc lớn, mở đầu với một khái quát ngắn gọn “Người chồng 44 tuổi khai đâm một nhát để “cảnh cáo” việc vợ bỏ nhà đi chứ không cố ý giết người.” Tiếp đó, người viết tường thuật về hành vi của nạn nhân – yếu tố ảnh hưởng đến quyết định gây án: “Theo cáo buộc, do mâu thuẫn, vợ Tân hay đi khỏi nhà mỗi khi cãi vã… Tân gọi điện cho vợ để khuyên quay về nhưng bất thành nên tới chỗ chị này đang ngồi nhậu với nhóm bạn làm nghề trộn bê tông”. Tuy những nội dung trên nằm trong cáo buộc, tức một phần của phiên xét xử, nhưng việc tường thuật cũng như bối cảnh tường thuật dễ hình thành ấn tượng sai lầm: hành vi của nạn nhân – người vợ là không phù hợp, từ đó, phần nào “hợp lý hóa” cảm xúc, hành động của phạm nhân.
5. Tục ngữ, quán ngữ dễ bị vận dụng sai trong đời sống hiện nay. Ví như tục ngữ “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” thường được sử dụng để nhấn mạnh về thiên hướng của hai giới, rất có thể bị hiểu như sự giới hạn và quy định về vai trò của đàn ông và phụ nữ trong gia đình. Hay như quán ngữ “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” tùy thuộc vào cách sử dụng, tránh áp lực dồn nén, thúc ép người phụ nữ mang vác một gánh nặng gấp đôi – “hai giỏi”.
Ngôn từ đổ lỗi cho nạn nhân bị bạo lực giới, theo kết quả khảo sát, chiếm đa số ở tin bài thuộc chuyên mục Pháp luật. Về nội dung, ngôn từ đổ lỗi cho nạn nhân được biển hiện qua nhiều hình thức, trong đó, phổ biến nhất là tập trung diễn giải lý do dẫn đến bạo lực giới là hành vi được coi là không phù hợp của nạn nhân. Điều này xuất hiện cả ở tít, sapo và trong câu từ của tác phẩm báo chí, như “Châm xăng đốt vợ vì đòi ly dị”, “Sát hại bạn gái vì không chịu bỏ nghề massage”, “Người đàn bà đa tình bị sát hại vì thất hứa”… hay“vì thấy ảnh vợ tình tứ trên mạng xã hội”, “vì tin nhắn tình cảm”, “vì thân thiện với người đàn ông lạ mặt”…
Ngôn từ hàm chứa thiên kiến giới và mặc định, duy trì khuôn mẫu giới trong ngôn ngữ của các tờ báo, tạp chí điện tử biểu hiện khác nhau thông qua tuyến nội dung đặc thù của từng chuyên mục và đối tượng trọng tâm của mỗi tờ báo, tạp chí điện tử.
Ngôn từ hạ thấp giá trị giới thường xuất hiện trong những tin bài có sự xuất hiện của nhiều hơn một giới và có sự so sánh trực tiếp, hay gián tiếp giữa các giới. Kiểu hình ngôn từ hạ thấp giá trị giới có xu hướng xuất hiện khi người viết thể hiện thái độ tích cực đối với một giới trên nền tảng tư tưởng, còn cực đoan, thiên kiến và có phần phiến diện với giới còn lại. Ở chuyên mục Pháp luật, phần lớn ngôn từ hạ thấp giá trị giới đi đôi với ngôn từ đổ lỗi cho nạn nhân bị bạo lực giới, trong một số trường hợp, có hàm chứa thiên kiến và khuôn mẫu giới.

Cần thay đổi tư duy
Định kiến giới trong ngôn ngữ báo mạng điện tử nói riêng và báo chí nói chung, trước tiên, có thể bắt đầu bằng việc xây dựng tư duy truyền thông có nhạy cảm giới. Với mỗi người làm báo, tư duy truyền thông có nhạy cảm giới cần được bồi dưỡng thông qua nhận thức rõ ràng và cụ thể về định kiến giới trong một số nội dung và chủ đề báo chí phổ biến như tin bài về bạo lực giới và xâm hại tình dục, về đời sống của người nổi tiếng, hoặc liên quan đến những hình tượng giới phổ biến trong văn hóa đại chúng.
Theo “Bộ chỉ số về giới trong Truyền thông” của Bộ Thông tin và Truyền thông, trang 73, “nhận thức về bình đẳng giới và giáo dục đào tạo những vấn đề liên quan đến giới cần được nâng cao”. Các chương trình đào tạo bắt buộc, định kỳ về giới và bình đẳng giới, nhạy cảm giới trong truyền thông cần được xây dựng và tổ chức cho tất cả người làm báo kể cả cấp lãnh đạo. Song song, tất cả các khóa đào tạo về kỹ năng báo chí, hay lĩnh vực chuyên môn đều cần lồng ghép nội dung bình đẳng giới và nhạy cảm giới.
Các phóng viên, biên tập viên cần được khuyến khích, chỉ định tham gia vào những khóa đào tạo, chương trình bồi dưỡng nâng cao về hoặc có lồng ghép nội dung về bình đẳng giới và nhạy cảm giới. Sau mỗi khóa đào tạo, chương trình bồi dưỡng, các báo cáo và đánh giá về hiệu quả tham gia của phóng viên, tỷ lệ cân bằng giữa nam và nữ phóng viên tham gia cần được thực hiện chi tiết và định kỳ. Trên phương diện đạo đức nghề nghiệp, trước tiên, hệ thống văn bản, chính sách về giới, bình đẳng giới và nhạy cảm giới trong tác nghiệp báo chí cần được tổng hợp và phổ cập trong các cơ quan, các hội nhóm, cộng đồng báo chí. Tương tự, các nguồn tài liệu về giới như tài liệu chuyên khảo, cẩm nang, sổ tay nghiệp vụ hay các chương trình, hội thảo phổ biến các chính sách, quy định đạo đức về giới nhằm hỗ trợ người làm báo cần được phổ biến rộng rãi.
Bên cạnh đó, cơ chế tiếp nhận khiếu nại, hoặc phản ánh về những sai phạm liên quan đến giới và bình đẳng giới trên báo chí cần được xây dựng và vận hành, cũng như đảm bảo công chúng biết đến cơ chế này.
Ở các cơ quan báo chí, trong những cấp ra quyết định (Trưởng, Phó ban, Tổng biên tập, Phó Tổng biên tập), cân bằng giới cũng cần được thiết lập để đảm bảo luồng tư tưởng chủ đạo trong việc phát triển tờ báo, tạp chí điện tử. Tỷ lệ nam nữ tham gia các vị trí lãnh đạo trong các cơ quan truyền thông cần cân bằng, tương tự với tỷ lệ đưa ra quyết định ở các cấp trong cơ quan truyền thông.
Trước tiên, tư duy bình đẳng giới của người làm báo cần được phân tích dưới góc độ quan điểm về công việc. Một bộ phận phóng viên không chỉ thiếu kiến thức về giới, mà sự thiếu sót đó còn bắt nguồn từ nhận thức: kiến thức về giới và bình đẳng giới không thực sự cần thiết và phục vụ cho công việc chuyên môn của họ, hoặc nhìn nhận bình đẳng giới như một phạm trù nội dung riêng, do những chuyên mục chuyên biệt đảm nhiệm.
Bên cạnh đó, khối lượng và cường độ công việc của một phóng viên cũng là yếu tố cần cân nhắc. Trong bối cảnh môi trường báo chí liên tục biến đổi, kỹ năng của mỗi phóng viên đòi hỏi được cải thiện và bồi dưỡng mỗi ngày để bắt kịp, đi trước, đón đầu những thay đổi trong đời sống xã hội. Vì vậy, phần lớn các chương trình đào tạo triển khai chuyên nghiệp, có tính bắt buộc ở các tòa soạn, cơ quan báo chí đều xoay quanh kỹ năng tác nghiệp. Vì vậy, sự hình thành và phát triển nhạy cảm giới trong truyền thông ở mỗi phóng viên, biên tập viên không chỉ dừng lại ở nỗ lực cá nhân mà còn phụ thuộc vào sự khuyến khích, tạo điều kiện của các cơ quan báo chí trong công tác bồi dưỡng, đào tạo kiến thức về giới và bình đẳng giới.
Có thể một số tờ báo, tạp chí điện tử quan ngại nhạy cảm giới trong truyền thông, với hệ quy tắc nghiêm ngặt trong việc tiếp cận, trình bày và duyệt thông tin sẽ làm giảm sức hút của tin, bài. Tuy nhiên, người làm báo không nên đánh giá quá thấp thị hiếu và khả năng kiến giải thông tin của độc giả. Sẽ có những cách tiếp cận khác, những giải pháp truyền thông khác bền vững và nhạy cảm giới hơn để thu hút sự quan tâm của công chúng, chỉ cần các cơ quan báo chí, phóng viên, biên tập viên nghiêm túc đào sâu khai thác trên cơ sở ý thức được tầm quan trọng của truyền thông có nhạy cảm giới nói riêng và bình đẳng giới nói chung trong đời sống xã hội./.
_____________
Bài đăng trên Tạp chí Người Làm Báo điện tử ngày 8.3.2021
PGS, TS Nguyễn Thị Trường Giang - Phạm Lê Linh Trang
Nguồn: http://nguoilambao.vn
Bài liên quan
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
- Quản trị thông tin chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
- Thông tin về hoạt động kinh tế của người dân khu vực nông thôn trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
- Nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên (từ thực tiễn thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa)
- Giải pháp đổi mới hoạt động truyền thông phòng, chống tin giả tại các trường trung học phổ thông hiện nay
Xem nhiều
-
1
[Video] Khai mạc Hội Báo toàn quốc 2025
-
2
Phê phán luận điệu xuyên tạc các nghị quyết “bộ tứ trụ cột”
-
3
Thái độ tiếp nhận của sinh viên đối với các sản phẩm truyền thông tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo trên nền tảng Tiktok
-
4
[Ảnh] Toàn cảnh Lễ khai mạc Hội Báo toàn quốc 2025
-
5
Bóc mẽ thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử Đảng trên không gian mạng của các thế lực thù địch
-
6
Quản trị thông tin chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về người làm báo trong xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí - truyền thông hiện nay
Bài viết phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí và người làm báo, làm rõ những giá trị cốt lõi và ý nghĩa thời sự của tư tưởng đó trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí - truyền thông hiện nay. Trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế toàn diện, việc vận dụng tư tưởng của Người trở nên cấp thiết nhằm hình thành một đội ngũ báo chí "vừa hồng, vừa chuyên" - vừa có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, vừa có năng lực chuyên môn cao, tư duy đổi mới và tinh thần gắn bó mật thiết với nhân dân. Những định hướng cụ thể được đề xuất trong bài viết góp phần hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền báo chí cách mạng trong thời kỳ mới.
Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Trong bức tranh truyền thông hiện đại, hình ảnh người phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS) Việt Nam đang dần được tái hiện với nhiều sắc thái mới, giàu tính biểu cảm và phản ánh đa dạng vai trò của họ trong đời sống đương đại. Tại Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN), việc quản lý, thể hiện và lan tỏa hình ảnh phụ nữ DTTS trên các sản phẩm báo ảnh ngày càng được chú trọng cả về chiều sâu nội dung lẫn chất lượng hình thức. Không chỉ đơn thuần là những khuôn hình đặc tả trang phục truyền thống hay lao động thường nhật, các sản phẩm báo ảnh tại đây còn hướng tới việc khắc họa chân dung người phụ nữ dân tộc với vai trò chủ thể phát triển – là cán bộ, trí thức, doanh nhân, nghệ nhân... Bài viết phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm quản lý tốt hình ảnh phụ nữ DTTS trên các sản phẩm báo ảnh của TTXVN hiện nay.
Quản trị thông tin chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Quản trị thông tin chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh nền kinh tế phục hồi sau đại dịch và chuyển mình mạnh mẽ trong giai đoạn chuyển đổi số, việc truyền thông hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trở thành một yêu cầu cấp thiết. Báo mạng điện tử với ưu thế về tốc độ, khả năng cập nhật và tính tương tác đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc định hướng nhận thức và hành vi của cộng đồng doanh nghiệp. Bài viết này phân tích thực trạng quản trị thông tin về chính sách hỗ trợ DNNVV trên một số báo mạng điện tử chuyên ngành tài chính - đầu tư ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra những điểm mạnh, hạn chế và đề xuất giải pháp quản trị thông tin, nâng cao hiệu quả truyền thông chính sách kinh tế - cụ thể là chính sách hỗ trợ DNNVV trên báo mạng điện tử, trong thời gian tới.
Thông tin về hoạt động kinh tế của người dân khu vực nông thôn trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Thông tin về hoạt động kinh tế của người dân khu vực nông thôn trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Báo mạng điện tử Việt Nam, với lợi thế về tính tích hợp đa phương tiện, tốc độ cập nhật và khả năng tương tác tức thời, đã trở thành nền tảng quan trọng trong việc kết nối và chuyển tải thông tin hai chiều đến với khu vực nông thôn. Nhiều báo lớn đã mở các chuyên mục về nông nghiệp, kinh tế nông thôn, khởi nghiệp nông nghiệp, cùng với đó là số lượng các bài viết về kinh tế nông thôn ngày càng nhiều, nội dung ngày càng đa dạng, tích cực ứng dụng đa phương tiện để thông tin hấp dẫn hơn, tăng cường tương tác với độc giả. Trên cơ sở khảo sát ba tờ báo điện tử là Dân Việt, Vietnamnet và Nhân Dân điện tử trong năm 2024, bài viết phân tích vai trò, hiệu quả thông tin về hoạt động kinh tế của người dân khu vực nông thôn trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay, đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thông tin về lĩnh vực này trong thời gian tới.
Nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên (từ thực tiễn thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa)
Nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên (từ thực tiễn thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa)
Trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam, con người luôn được xác định là trung tâm, là chủ thể và là mục tiêu của mọi chiến lược phát triển. Trong các nhóm xã hội, thanh niên – với tư cách là một bộ phận dân số có quy mô lớn, có trí tuệ, khát vọng cống hiến và khả năng thích ứng cao – giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu phát triển con người toàn diện, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó thanh niên là lực lượng xung kích, tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ quốc. Quá trình tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng cũng chịu nhiều thách thức, nhất là trong bối cảnh mới như cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số, những tác động hậu COVID-19, và chủ trương tinh giản bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay. Là một trong những địa bàn có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh, đặc biệt về mảng du lịch – dịch vụ, để trở thành trung tâm du lịch chất lượng cao của khu vực Bắc Trung Bộ, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa cần một lực lượng lao động trẻ có chất lượng, năng động, chuyên nghiệp và có ý thức chính trị – xã hội vững vàng.
Bình luận