Định kiến giới trong ngôn ngữ báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Vấn đề quan trọng
Báo chí, với tư cách nhân tố tạo dư luận, đồng thời dẫn dắt, chi phối dư luận xã hội, có vai trò to lớn trong việc góp phần ổn định, tăng cường đồng thuận xã hội, từ đó nâng cao ý thức và cải thiện nhận thức về định kiến giới. Trong các loại hình báo chí, báo mạng điện tử, với những ưu điểm nổi bật như phi tuyến tính, khả năng truy cập thông tin không giới hạn và sức lan tỏa mạnh mẽ giúp thay đổi định kiến giới trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Song song với những nỗ lực không ngừng nghỉ, định kiến giới vẫn tồn tại âm thầm trong báo chí dưới nhiều hình thức tinh vi, phức tạp. Định kiến giới càng trở nên nguy hại khi chúng “ăn sâu” vào những người làm báo và nhà quản lý cơ quan báo chí, tác động lệch lạc đến tư duy tác nghiệp và thể hiện qua nội dung, chi tiết hay ngôn ngữ báo chí, từ đó, truyền tải thông tin hàm chứa định kiến giới đến công chúng. Trong đó, báo mạng điện tử là “môi trường” lý tưởng cho những sản phẩm, tác phẩm báo chí mang định kiến giới sinh sôi, phát triển.
Để có đánh giá khoa học, khách quan về định kiến giới trong ngôn ngữ báo mạng điện tử, một khảo sát được thực hiện trong thời gian từ 01.06.2019 đến 31.12.2019 trên bốn (04) tờ báo, tạp chí điện tử bao gồm: VnExpress, Zing News, Vietnamplus và Phụ nữ Việt Nam. Những tác phẩm được khảo sát thuộc hai chuyên mục:
(1) Pháp luật– thông tin chính xác, rõ ràng, khách quan và góp phần hình thành nhận thức đầy đủ của công chúng về quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật;
(2) một chuyên mục có hàm lượng thông tin về giới cao thuộc từng báo (chuyên mục Đời sống của VnExpress; Zing News Vietnamplus; và chuyên mục Yêu của Phụ nữ Việt Nam) – thông tin xoay quanh mối quan hệ giữa các cá nhân trên cơ sở giới trong đời sống thường nhật, đây cũng là loại thông tin phổ biến, nhiều tính giải trí, thường được sản xuất và đón nhận một cách cảm tính, ít chịu sự ràng buộc bởi tính chính xác, khách quan.
Nội dung định kiến giới trong ngôn ngữ báo mạng điện tử thuộc những sản phẩm báo chí nói trên được định vị và phân loại như sau:
1. Ngôn từ hàm chứa thiên kiến giới - là những ngôn từ có xu hướng áp đặt một số cách nhìn và cách hiểu nhất định về phẩm chất, điều kiện, vai trò của cá nhân trong xã hội dựa trên giới tính.
Bài viết “Các lãnh đạo nữ ‘trị’ Covid-19 tốt hơn?” trên một tờ báo điện tử đã “hé lộ” những đặc điểm khiến các nhà lãnh đạo nữ thành công trong việc “chế ngự” Covid-19: “Các nữ lãnh đạo trên rõ ràng rất khác với các vị tổng thống, thủ tướng của nhiều nước đang thể hiện những cách phản ứng khác nhau với dịch bệnh: đổ lỗi cho người khác, tranh thủ kiếm phiếu bầu…” Dù với thiện ý, bằng cách quy chiếu những đặc điểm lãnh đạo tiêu cực, tham vọng cho nam giới, bài viết đã ngầm “gán ghép” các phẩm chất tích cực cho nữ giới, từ đó hình thành tiêu chuẩn kép mà với những bối cảnh và hình thức triển khai khác, chính những phẩm chất này sẽ trở thành gánh nặng cho người phụ nữ.
2. Ngôn từ hàm ý mặc định, duy trì khuôn mẫu giới - là những ngôn từ có xu hướng mặc định hay duy trì những khuôn mẫu về ngoại hình, hành vi, ứng xử, phẩm chất của cá nhân dựa trên giới tính.
Bài viết với tiêu đề “Tìm ra lý do Hoàng tử William hẹn hò với Kate nhiều năm mãi không chịu kết hôn” trên tờ báo của Phụ nữ, ngay từ tiêu đề, với những từ ngữ: “Hoàng tử William… không chịu kết hôn”, “hẹn hò nhiều năm”, “chịu kết hôn”, “tìm ra lý do”…, bài viết đã khẳng định tư tưởng chủ đạo: cuộc hôn nhân “đến muộn” của Hoàng tử William và Công tước phu nhân Catherine (Kate) và một điều lạ, đáng tò mò và bài viết sẽ “tiết lộ” lý do đằng sau “sự lạ” đó. Tư tưởng trên được tiếp diễn và tái khẳng định qua những câu từ như: “Hoàng tử Anh chần chừ khá lâu mới quyết định kết hôn với Kate dù đã yêu nhau một thời gian khá lâu và gia đình Hoàng gia cũng khá ưng cô gái như Kate.”
Thông qua tiết lộ về chuyện tình cảm của cặp đôi Hoàng gia, bài viết đã sử dụng một loạt ngôn từ với hàm ý mặc định, duy trì một số khuôn mẫu giới rất phổ biến: yêu là phải cưới; yêu lâu chưa cưới là bất thường; người đàn ông luôn nắm vai trò chủ động khi quyết định tiến đến hôn nhân; ngược lại, trước hôn nhân, phụ nữ luôn mong cầu và bị động.
3. Ngôn từ mang ý nghĩa thiên vị hoặc hạ thấp giá trị giới là những ngôn từ có xu hướng thiên vị hoặc hạ thấp đối tượng được đề cập dựa trên một số định kiến hoặc khuôn mẫu giới. Trong bài viết “Hoàng Lê Vi sắp sinh con gái thứ hai” trên một tạp chí điện tử có chi tiết: “Hoàng Lê Vi cho biết, hai lần đầu đi siêu âm, bác sĩ bảo có khả năng là bé trai khiến vợ chồng cô không vui lắm bởi cả hai rất thích con gái”. Dù khó nhận biết, nhưng những chi tiết “khả năng là bé trai… vợ chồng cô không vui”, “cả hai rất thích con gái” đều mang ý nghĩa thiên vị giới. Xuất hiện trên đầu của một tác phẩm báo điện tử (vị trí nổi bật), chi tiết này được xem như điểm nhấn, có hàm ý tán dương sở thích “khác người” của vợ chồng Hoàng Lê Vi – thích sinh con gái. Qua đó, bài viết vô tình chuyển tải sự thiên vị và hạ thấp giới: thích sinh con trai là lẽ thường, trái với thích con gái là điều “bất thường” cần đề cập, nhấn mạnh; những kỳ vọng, phân biệt về giới tính của cha mẹ với con cái “con trai… không vui lắm”, “thích con gái”.
4. Ngôn ngữ hàm ý đổ lỗi cho người bị bạo lực giới là những ngôn từ có xu hướng đổ lỗi cho người bị bạo lực giới thông qua việc đưa ra những phán xét “ngầm” về ngoại hình, phẩm chất, hành vi của họ theo khuôn mẫu giới. Bài viết “17 năm tù cho người chồng đâm vợ tử vong tại bữa nhậu” trên một tờ báo có số người đọc lớn, mở đầu với một khái quát ngắn gọn “Người chồng 44 tuổi khai đâm một nhát để “cảnh cáo” việc vợ bỏ nhà đi chứ không cố ý giết người.” Tiếp đó, người viết tường thuật về hành vi của nạn nhân – yếu tố ảnh hưởng đến quyết định gây án: “Theo cáo buộc, do mâu thuẫn, vợ Tân hay đi khỏi nhà mỗi khi cãi vã… Tân gọi điện cho vợ để khuyên quay về nhưng bất thành nên tới chỗ chị này đang ngồi nhậu với nhóm bạn làm nghề trộn bê tông”. Tuy những nội dung trên nằm trong cáo buộc, tức một phần của phiên xét xử, nhưng việc tường thuật cũng như bối cảnh tường thuật dễ hình thành ấn tượng sai lầm: hành vi của nạn nhân – người vợ là không phù hợp, từ đó, phần nào “hợp lý hóa” cảm xúc, hành động của phạm nhân.
5. Tục ngữ, quán ngữ dễ bị vận dụng sai trong đời sống hiện nay. Ví như tục ngữ “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” thường được sử dụng để nhấn mạnh về thiên hướng của hai giới, rất có thể bị hiểu như sự giới hạn và quy định về vai trò của đàn ông và phụ nữ trong gia đình. Hay như quán ngữ “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” tùy thuộc vào cách sử dụng, tránh áp lực dồn nén, thúc ép người phụ nữ mang vác một gánh nặng gấp đôi – “hai giỏi”.
Ngôn từ đổ lỗi cho nạn nhân bị bạo lực giới, theo kết quả khảo sát, chiếm đa số ở tin bài thuộc chuyên mục Pháp luật. Về nội dung, ngôn từ đổ lỗi cho nạn nhân được biển hiện qua nhiều hình thức, trong đó, phổ biến nhất là tập trung diễn giải lý do dẫn đến bạo lực giới là hành vi được coi là không phù hợp của nạn nhân. Điều này xuất hiện cả ở tít, sapo và trong câu từ của tác phẩm báo chí, như “Châm xăng đốt vợ vì đòi ly dị”, “Sát hại bạn gái vì không chịu bỏ nghề massage”, “Người đàn bà đa tình bị sát hại vì thất hứa”… hay“vì thấy ảnh vợ tình tứ trên mạng xã hội”, “vì tin nhắn tình cảm”, “vì thân thiện với người đàn ông lạ mặt”…
Ngôn từ hàm chứa thiên kiến giới và mặc định, duy trì khuôn mẫu giới trong ngôn ngữ của các tờ báo, tạp chí điện tử biểu hiện khác nhau thông qua tuyến nội dung đặc thù của từng chuyên mục và đối tượng trọng tâm của mỗi tờ báo, tạp chí điện tử.
Ngôn từ hạ thấp giá trị giới thường xuất hiện trong những tin bài có sự xuất hiện của nhiều hơn một giới và có sự so sánh trực tiếp, hay gián tiếp giữa các giới. Kiểu hình ngôn từ hạ thấp giá trị giới có xu hướng xuất hiện khi người viết thể hiện thái độ tích cực đối với một giới trên nền tảng tư tưởng, còn cực đoan, thiên kiến và có phần phiến diện với giới còn lại. Ở chuyên mục Pháp luật, phần lớn ngôn từ hạ thấp giá trị giới đi đôi với ngôn từ đổ lỗi cho nạn nhân bị bạo lực giới, trong một số trường hợp, có hàm chứa thiên kiến và khuôn mẫu giới.
Cần thay đổi tư duy
Định kiến giới trong ngôn ngữ báo mạng điện tử nói riêng và báo chí nói chung, trước tiên, có thể bắt đầu bằng việc xây dựng tư duy truyền thông có nhạy cảm giới. Với mỗi người làm báo, tư duy truyền thông có nhạy cảm giới cần được bồi dưỡng thông qua nhận thức rõ ràng và cụ thể về định kiến giới trong một số nội dung và chủ đề báo chí phổ biến như tin bài về bạo lực giới và xâm hại tình dục, về đời sống của người nổi tiếng, hoặc liên quan đến những hình tượng giới phổ biến trong văn hóa đại chúng.
Theo “Bộ chỉ số về giới trong Truyền thông” của Bộ Thông tin và Truyền thông, trang 73, “nhận thức về bình đẳng giới và giáo dục đào tạo những vấn đề liên quan đến giới cần được nâng cao”. Các chương trình đào tạo bắt buộc, định kỳ về giới và bình đẳng giới, nhạy cảm giới trong truyền thông cần được xây dựng và tổ chức cho tất cả người làm báo kể cả cấp lãnh đạo. Song song, tất cả các khóa đào tạo về kỹ năng báo chí, hay lĩnh vực chuyên môn đều cần lồng ghép nội dung bình đẳng giới và nhạy cảm giới.
Các phóng viên, biên tập viên cần được khuyến khích, chỉ định tham gia vào những khóa đào tạo, chương trình bồi dưỡng nâng cao về hoặc có lồng ghép nội dung về bình đẳng giới và nhạy cảm giới. Sau mỗi khóa đào tạo, chương trình bồi dưỡng, các báo cáo và đánh giá về hiệu quả tham gia của phóng viên, tỷ lệ cân bằng giữa nam và nữ phóng viên tham gia cần được thực hiện chi tiết và định kỳ. Trên phương diện đạo đức nghề nghiệp, trước tiên, hệ thống văn bản, chính sách về giới, bình đẳng giới và nhạy cảm giới trong tác nghiệp báo chí cần được tổng hợp và phổ cập trong các cơ quan, các hội nhóm, cộng đồng báo chí. Tương tự, các nguồn tài liệu về giới như tài liệu chuyên khảo, cẩm nang, sổ tay nghiệp vụ hay các chương trình, hội thảo phổ biến các chính sách, quy định đạo đức về giới nhằm hỗ trợ người làm báo cần được phổ biến rộng rãi.
Bên cạnh đó, cơ chế tiếp nhận khiếu nại, hoặc phản ánh về những sai phạm liên quan đến giới và bình đẳng giới trên báo chí cần được xây dựng và vận hành, cũng như đảm bảo công chúng biết đến cơ chế này.
Ở các cơ quan báo chí, trong những cấp ra quyết định (Trưởng, Phó ban, Tổng biên tập, Phó Tổng biên tập), cân bằng giới cũng cần được thiết lập để đảm bảo luồng tư tưởng chủ đạo trong việc phát triển tờ báo, tạp chí điện tử. Tỷ lệ nam nữ tham gia các vị trí lãnh đạo trong các cơ quan truyền thông cần cân bằng, tương tự với tỷ lệ đưa ra quyết định ở các cấp trong cơ quan truyền thông.
Trước tiên, tư duy bình đẳng giới của người làm báo cần được phân tích dưới góc độ quan điểm về công việc. Một bộ phận phóng viên không chỉ thiếu kiến thức về giới, mà sự thiếu sót đó còn bắt nguồn từ nhận thức: kiến thức về giới và bình đẳng giới không thực sự cần thiết và phục vụ cho công việc chuyên môn của họ, hoặc nhìn nhận bình đẳng giới như một phạm trù nội dung riêng, do những chuyên mục chuyên biệt đảm nhiệm.
Bên cạnh đó, khối lượng và cường độ công việc của một phóng viên cũng là yếu tố cần cân nhắc. Trong bối cảnh môi trường báo chí liên tục biến đổi, kỹ năng của mỗi phóng viên đòi hỏi được cải thiện và bồi dưỡng mỗi ngày để bắt kịp, đi trước, đón đầu những thay đổi trong đời sống xã hội. Vì vậy, phần lớn các chương trình đào tạo triển khai chuyên nghiệp, có tính bắt buộc ở các tòa soạn, cơ quan báo chí đều xoay quanh kỹ năng tác nghiệp. Vì vậy, sự hình thành và phát triển nhạy cảm giới trong truyền thông ở mỗi phóng viên, biên tập viên không chỉ dừng lại ở nỗ lực cá nhân mà còn phụ thuộc vào sự khuyến khích, tạo điều kiện của các cơ quan báo chí trong công tác bồi dưỡng, đào tạo kiến thức về giới và bình đẳng giới.
Có thể một số tờ báo, tạp chí điện tử quan ngại nhạy cảm giới trong truyền thông, với hệ quy tắc nghiêm ngặt trong việc tiếp cận, trình bày và duyệt thông tin sẽ làm giảm sức hút của tin, bài. Tuy nhiên, người làm báo không nên đánh giá quá thấp thị hiếu và khả năng kiến giải thông tin của độc giả. Sẽ có những cách tiếp cận khác, những giải pháp truyền thông khác bền vững và nhạy cảm giới hơn để thu hút sự quan tâm của công chúng, chỉ cần các cơ quan báo chí, phóng viên, biên tập viên nghiêm túc đào sâu khai thác trên cơ sở ý thức được tầm quan trọng của truyền thông có nhạy cảm giới nói riêng và bình đẳng giới nói chung trong đời sống xã hội./.
_____________
Bài đăng trên Tạp chí Người Làm Báo điện tử ngày 8.3.2021
PGS, TS Nguyễn Thị Trường Giang - Phạm Lê Linh Trang
Nguồn: http://nguoilambao.vn
Bài liên quan
- Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
- Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
- Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
- Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
- Về con đường đi tới của Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ và tầm nhìn cho kỷ nguyên mới
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Hội thảo khoa học: “Chuyển đổi số trong công tác tư tưởng, lý luận ở Việt Nam hiện nay”
Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão và đóng vai trò then chốt cho sự phát triển, công tác tư tưởng, lý luận cũng đang đứng trước cơ hội để nâng tầm và hoạt động mạnh mẽ, hiệu lực, hiệu quả nếu biết tận dụng tốt những lợi thế cuộc cách mạng chuyển đổi số 4.0 mang lại.
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Việt Nam - Cuba là biểu tượng sáng ngời về tình đoàn kết hữu nghị quốc tế. Hai dân tộc đã sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tình hữu nghị đặc biệt này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Fidel Castro vun đắp qua nhiều thế hệ và trở thành một tài sản vô giá của cả hai dân tộc.
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện) là đơn vị sự nghiệp công lập, có chức năng đào tạo đại học, sau đại học các ngành lý luận chính trị, báo chí, truyền thông, kinh tế, xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội…, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ các cấp. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Học viện cần có cơ chế tài chính phù hợp nhằm huy động tối đa nguồn lực tài chính và phân phối, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tạo động lực thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong những năm qua, thực hiện cơ chế tài chính ở Học viện đã có những chuyển biến tích cực, các nguồn thu đảm bảo chi, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Học viện. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu nguồn lực tài chính cho chiến lược phát triển giai đoạn mới của Học viện, công tác thực hiện cơ chế quản lý tài chính cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện.
Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
Trong 33 năm làm việc ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền, tôi có 30 năm gắn bó với Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, cho dù tôi không phải trực tiếp biên chế công tác tại đây.
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác văn hóa, văn nghệ, trong những năm qua, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã quan tâm lãnh đạo công tác này, qua đó đạt được một số kết quả khá quan trọng, đóng góp vào sự phát triển chung về kinh tế - văn hóa - xã hội của Thành phố. Trên cơ sở phân tích thực trạng lãnh đạo công tác văn hóa, văn nghệ của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, bài viết đề xuất một số giải pháp giúp tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy đối với công tác này trong thời gian tới.
Bình luận