Duy trì thành quả mức sinh thay thế ở Bình Định
Bình Định sau hơn 10 năm thực hiện chính sách DS/KHHGĐ phấn đấu giảm sinh, đến nay đang tiến gần ngưỡng của mức sinh thay thế. Tỷ suất sinh ở Bình Định đạt 16,3 phần ngàn; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,06%; số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi từ 15 - 49 đạt gần 2,1 con, sớm hơn mục tiêu đề ra của chiến lược DS/KHHGĐ.
Duy trì được mức sinh như hiện nay là cố gắng rất lớn của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể, các hội quần chúng và nhân dân các dân tộc toàn tỉnh, có sự đóng góp không nhỏ của Uỷ ban Dân số - Gia đình và Trẻ em và các cộng tác viên của ngành.
Tuy nhiên, ở Bình Định vẫn còn nhiều yếu tố tiềm ẩn sự gia tăng dân số trở lại. Đó là, cơ cấu dân số trẻ, số người bước vào tuổi sinh đẻ nhiều, nhận thức của nhân dân về thực hiện chương trình DS/SKSS còn nhiều hạn chế nên năm 2003 - 2004 tốc độ gia tăng dân số nhanh, số người sinh con thứ 3 trở lên nhiều, nhất là khu vực nông thôn.
Hiện tại Bình Định là tỉnh có dân số đông nhất khu vực duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. Mật độ dân cư năm 2003 đã lên đến 250 người/1km2. Trong đó dân số vùng đô thị chỉ chiếm khoảng 24% (kết quả điều tra năm 2003) ở khu vực nông thôn chiếm 76%. Hiện nay tổng tỷ suất sinh trung bình của khu vực thành thị toàn tỉnh đạt 2,17 con (gần với mức sinh thay thế), nhưng ở khu vực nông thôn, nơi chiếm 76% dân số có số con trung bình vẫn xấp xỉ 2,5 con/phụ nữ trong tuổi sinh sản. Như vậy, vẫn chưa đạt mức sinh thay thế trong phạm vi toàn tỉnh và còn có nguy cơ tái bùng nổ dân số nếu không tiếp tục không chế mức sinh, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa và các khu vực dân cư đặc biệt khó khăn. Ngoài ra, tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên hiện tại vẫn ở mức khá cao. Theo số liệu điều tra năm 2003, bình quân cả tỉnh đang có 18% tổng số phụ nữ sinh con thứ ba trở lên. Chỉ có ở Thành phố Quy Nhơn và một số thị trấn khác đạt tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên từ 15 - 16%. Nếu muốn dân số đạt mức thay thế thì số phụ nữ sinh con thứ ba trở lên phải đạt dưới 10%. Gần đây, trong các năm 2003 - 2004, ở một số vùng dân cư trong tỉnh mức sinh đang có xu hướng tăng lên bất thường. Vì vậy mục tiêu vận động giảm sinh phải được tiếp tục duy trì tích cực mới có thể bảo vệ tính ổn định dân số một cách bền vững.
Điều đáng quan tâm là Bình Định hiện đang có một cơ cấu dân số trẻ, số vị thành niên nhiều. Theo điều tra của cơ quan chức năng năm 2003, toàn tỉnh có 1.530.000 người, trong đó lực lượng vị thành niên hơn 400.000 người, chiếm khoảng 25% dân số. Những vị thành niên hôm nay sẽ tham gia vào quá trình sinh sản trong tương lai không xa, nhưng họ lại chưa được quan tâm đúng mức chưa được chuẩn bị tốt kiến thức, kỹ năng về SKSS và tư duy cần thiết cho việc làm cha, làm mẹ sau này. Đây là vấn đề không những liên quan tới sự phát triển dân số mà còn là những khó khăn về chất lượng dân số mà nước ta đang thực hiện trong chiến lược dân số giai đoạn 2001 - 2010.
Pháp lệnh dân số quy định quyền và nghĩa vụ của công dân khi thực hiện hành vi sinh sản, mục đích là nhằm tạo điều kiện để duy trì mức giảm sinh vững chắc trong giai đoạn chuyển tiếp đi lên của chất lượng dân số. Tuy vậy, đến nay vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ và người dân chưa nhận thức đúng về KHHGĐ, cho rằng việc sinh con không còn bị hạn chế và mong muốn sinh thêm con thứ ba, thứ tư, đặc biệt là con trai. Điều này cho thấy sự thiếu bền vững ngay trong nhận thức của mọi người - kể cả đội ngũ trí thức và cán bộ đang công tác trong các cơ quan nhà nước, đơn vị, doanh nghiệp. Đấy chính là nguy cơ tiềm ẩn thúc đẩy tái gia tăng dân số, dẫn đến bùng nổ dân số cục bộ ở một số vùng và địa phương.
Theo mối quan hệ biện chứng và quy luật của Nhân khẩu học, khi mức sinh tiếp cận với mức sinh thay thế hoặc chỉ mới bắt đầu đạt mức sinh thay thế thì phải tiến hành nâng cao chất lượng dân số. Chất lượng dân số cao sẽ có tác dụng duy trì vững chắc mức sinh thay thế. Thực tế hiện nay ở Bình Định, gần như đã đạt mức sinh thay thế trong điều kiện chất lượng dân số thấp cả về thể lực lẫn trí lực. Tuy chỉ số phát triển con người HDI của nước ta hiện đã được nâng lên đáng kể, xếp thứ 109 trong tổng số 175 quốc gia, nhưng các chỉ tiêu khác như tuổi thọ, số năm học, thể lực... còn rất thấp so với các nước phát triển.
Công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em ở Bình Định trong các năm vừa qua có nhiều chuyển biến tích cực. Song tình hình trẻ em lang thang, lao động sớm để kiếm sống, trẻ em vi phạm pháp luật; trẻ em bị xâm hại tình dục... đang là nỗi nhức nhối của toàn xã hội. Nếu vấn đề này không được sớm cải thiện thì coi như chúng ta đã thiếu đi sự chăm lo cho thế hệ tương lai của đất nước, cũng như mục tiêu nâng cao chất lượng dân số mà chiến lược dân số 2001 - 2010 đã đề ra.
Có thể nói, tỉnh Bình Định hiện đã phấn đấu gần đạt đến mức sinh thay thế, tuy vậy để duy trì được tính bền vững của mức sinh như hiện nay, không đơn giản chỉ là công việc của một vài ngành, đơn vị chuyên môn, mà là của toàn đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 4 (tháng 7+8)/2005
Bài liên quan
- Đặc điểm hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội của thế hệ Z tại Việt Nam
- Xây dựng đội ngũ nữ trí thức thành phố Hải Phòng trong kỷ nguyên mới
- Truyền thông về sản phẩm OCOP trên báo mạng điện tử địa phương vùng Trung du Bắc Bộ
- Quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan hành chính nhà nước Thành phố Hà Nội trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
- Short video trong xây dựng thương hiệu YouTube của cơ quan báo chí hiện nay: Vai trò, vấn đề đặt ra và một số giải pháp
Xem nhiều
-
1
Thực hành tiết kiệm
-
2
Video Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền lần thứ XII, nhiệm kỳ 2025-2030
-
3
Ứng dụng AI trong sáng tạo tác phẩm báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay
-
4
Sự dịch chuyển của thương hiệu Việt trong ngành thực phẩm và đồ uống (F&B) Việt Nam
-
5
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vận dụng trong nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay
-
6
Tổ chức thành công đại hội các cấp của Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: đoàn kết, dân chủ, gương mẫu, trí tuệ, hiệu quả
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, trí tuệ, “là đạo đức, là văn minh” và việc vận dụng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong kỷ nguyên mới
Trong bài nói tại Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, tối 5-1-1960, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”(1). Tám chữ vàng đã kết tinh phẩm giá, cốt cách, bản lĩnh, trí tuệ, tầm vóc của một đảng cách mạng chân chính và mang giá trị thời đại sâu sắc, tiếp tục soi sáng cho công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, để trở thành “một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, chân chính, triệt để cách mạng”(2), đủ sức gánh vác sứ mệnh đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới phồn vinh, hạnh phúc.
Đặc điểm hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội của thế hệ Z tại Việt Nam
Đặc điểm hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội của thế hệ Z tại Việt Nam
Trong bối cảnh mạng xã hội ngày càng trở thành kênh tiếp cận thông tin phổ biến, nghiên cứu này tập trung phân tích hành vi tiêu thụ tin tức của thế hệ Z tại Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ một cuộc khảo sát do tác giả thực hiện vào tháng 8/2024, trong khuôn khổ thực hiện luận án Tiến sĩ với đề tài “Nghiên cứu hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội của thế hệ Z tại Việt Nam”. Khảo sát được tiến hành với 1.224 thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 15 đến 21. Kết quả cho thấy, 97,2% người tham gia lựa chọn mạng xã hội là nguồn tin tức chính. Trong đó, các nền tảng được sử dụng phổ biến nhất gồm Facebook, TikTok và YouTube. Các chủ đề tin tức thu hút sự quan tâm nhiều nhất là giải trí, xã hội và kinh tế. Hơn 68% người được hỏi tích cực tham gia các hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội như đọc, chia sẻ và thảo luận; khoảng 61% chủ động kiểm tra nguồn tin khi tiêu thụ. Đáng chú ý, 80% số người tham gia nhận thức được rằng mạng xã hội sử dụng thuật toán để cá nhân hóa nội dung, nhưng phần lớn (68,9%) có đánh giá tiêu cực, đặc biệt là lo ngại về quyền riêng tư và thiên lệch nội dung dẫn đến nguy cơ tạo thành "bong bóng thông tin". Nghiên cứu cũng cho thấy mức độ nhận thức và hành vi tiêu thụ tin tức có xu hướng tăng dần theo độ tuổi. Các kết quả đã gợi mở về nhu cầu giáo dục kiến thức truyền thông số cho nhóm công chúng này và đặt ra vấn đề về trách nhiệm của nền tảng trong điều chỉnh thuật toán nhằm tạo môi trường truyền thông tin tức hiệu quả và bền vững.
Xây dựng đội ngũ nữ trí thức thành phố Hải Phòng trong kỷ nguyên mới
Xây dựng đội ngũ nữ trí thức thành phố Hải Phòng trong kỷ nguyên mới
Nghiên cứu khái quát thực trạng đội ngũ nữ trí thức thành phố Hải Phòng giai đoạn 2008–2025, làm rõ những thành tựu nổi bật, đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế, trên cơ sở đó, đề xuất một hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm xây dựng đội ngũ nữ trí thức Hải Phòng trong thời kỳ chuyển đổi số, hội nhập sâu rộng và phát triển kinh tế tri thức, đóng góp thiết thực vào việc nâng cao nguồn lực con người, phát huy vai trò của phụ nữ Hải Phòng trong kỷ nguyên mới 2025–2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Truyền thông về sản phẩm OCOP trên báo mạng điện tử địa phương vùng Trung du Bắc Bộ
Truyền thông về sản phẩm OCOP trên báo mạng điện tử địa phương vùng Trung du Bắc Bộ
Trong những năm gần đây, chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn theo hướng bền vững, gắn với phát huy giá trị bản địa và nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm nông nghiệp. Trong quá trình đó, báo chí -truyền thông đặc biệt là báo mạng điện tử địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá hình ảnh, khơi dậy niềm tin người tiêu dùng, đồng thời kết nối sản phẩm OCOP với thị trường. Tại các tỉnh vùng Trung du Bắc Bộ - nơi có tiềm năng phong phú về đặc sản nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ, hệ thống báo mạng địa phương đã có nhiều nỗ lực đưa thông tin về sản phẩm OCOP đến với công chúng. Tuy nhiên, hoạt động truyền thông này vẫn còn phân tán, thiếu chiều sâu và chưa khai thác hiệu quả các thế mạnh của báo điện tử trong tích hợp đa phương tiện, tương tác hai chiều. Bài viết phân tích thực trạng truyền thông về sản phẩm OCOP trên báo mạng điện tử địa phương các tỉnh vùng Trung du Bắc Bộ, chỉ ra những mặt đạt được, những hạn chế còn tồn tại và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng truyền thông, góp phần đưa sản phẩm OCOP thực sự trở thành thương hiệu nông thôn mới.
Quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan hành chính nhà nước Thành phố Hà Nội trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan hành chính nhà nước Thành phố Hà Nội trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh truyền thông số phát triển mạnh mẽ và nhu cầu tiếp cận thông tin của người dân ngày càng cao, việc quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan hành chính nhà nước (HCNN) trở thành một nhiệm vụ cấp thiết nhằm bảo đảm tính chính xác, kịp thời và định hướng dư luận xã hội hiệu quả. Tại Thủ đô Hà Nội - trung tâm chính trị, hành chính của cả nước, hoạt động phát ngôn diễn ra với mật độ cao, liên quan đến nhiều lĩnh vực nhạy cảm và được báo chí, đặc biệt là báo mạng điện tử (BMĐT), cập nhật liên tục. Trên thực tế, các BMĐT đang giữ vai trò cầu nối quan trọng giữa cơ quan công quyền và công chúng trong truyền thông chính sách, nhưng cũng đối mặt với không ít thách thức: từ áp lực thời gian, tính xác thực của nguồn tin, đến yêu cầu về cách thể hiện thông tin thân thiện, dễ hiểu. Bài viết này tập trung phân tích thực trạng quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan HCNN thành phố Hà Nội trên BMĐT hiện nay, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế còn tồn tại, đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị thông tin trong thời đại số, nhằm hướng tới nền hành chính minh bạch, hiện đại và phục vụ.
Bình luận