Hôn nhân bất hạnh trong tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam
Đêm năm canh năm vợ ngồi hầu
Vợ cả pha nước têm trầu chàng xơi
Vợ hai trải chiếu, chia bài
Vợ ba coi sóc nhà ngoài nhà trong
Vợ tư trải chiếu quạt mùng
Vợ năm thức dậy trong lòng xót xa
Chè thang, cháo đậu bưng ra
Chàng xơi một bát kẻo mà công lênh
Thân em làm lẽ chẳng hề
Có như chính thất mà lê giữa giường
Sáng sáng chị gọi: ớ hai!
Bấy giờ trở dậy, thái khoai băm bèo
Vì chưng bác mẹ tôi nghèo
Cho nên tôi phải băm bèo thái khoai (1)
Đấy là những bài ca dao nói về một người đàn ông đa thê. Bản thân người chồng và cửa nhà anh ta được các người vợ mỗi người một việc, chăm sóc và trông coi chu đáo. Duy có người vợ cả được nhàn hạ hơn, đỡ vất vả hơn, còn những người vợ lẽ, nhất là người thứ tư và năm, thì không khác mấy kẻ hầu, làm thuê không công. Như vậy, tuy là được quyền làm vợ, là gái có chồng, có cuộc sống hôn nhân, nhưng những người vợ lẽ ở đây không biết đến hạnh phúc là gì. Với họ, chỉ có công việc, nỗi đau khổ và sự sợ hãi. Chế độ đa thê đã tước bỏ mất nhiều quyền lợi chính đáng của phụ nữ, cho nên khi giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã xoá bỏ chế độ hôn nhân vô đạo, phản con người đó để sớm thực thi chính sách hôn nhân tiến bộ một vợ một chồng.
Hôn nhân trong xã hội cũ là phản tiến bộ, là sự áp đặt, ép uổng của bố mẹ và gia đình. Vì thế mà nhiều chị em phụ nữ buộc phải lấy người già yếu, hom hem, ra ngoài xã hội thì xấu hổ với bạn bè, chúng bạn, về nhà thì âm thầm nuốt tủi, tức là phải sống một cuộc sống đầy bất hạnh. Đọc những bài ca dao sau đây nói về nỗi khổ vô cùng của nhiều phụ nữ Việt Nam do chế độ đa thê gây ra, tin rằng mọi người có lương tâm sẽ thông cảm, yêu thương những người phụ nữ ấy và góp phần tích cực hơn vào việc xây dựng, khẳng định chế độ hôn nhân tiến bộ, tự do tìm hiểu, quyết định, nghiêm cấm mọi hành vi áp đặt mà nhà nước ta chủ trương, đề xuất và đang được thực hiện trong xã hội mới:
Vô duyên, vô phúc
Múc phải anh chồng già
Ra đường người hỏi rằng: cha hay chồng?
Nói ra đau đớn trong lòng
ấy cái nợ truyền kiếp, có phải chồng em đâu
Ngày ngày vác cối giã trầu
Tay thời rót nước, tay hầu cái tăm
Đêm đêm đưa lão đi nằm
Thiếp đặt lão xuống, lão nằm trơ trơ
Hỡi ông lão ơi! Ông trở dậy cho thiếp tôi nhờ
Để thiếp tôi kiếm chút con thơ bế bồng(2)
Hôn nhân, tác thành vợ chồng với người già như vậy, người phụ nữ, về mặt tâm lý, quan hệ xã hội, rất khổ sở; về mặt tình cảm, không có yêu thương giữa vợ và chồng; hy vọng có chút con thơ, cũng rất khó trở thành hiện thực. Nỗi bất hạnh của người phụ nữ lấy phải người chồng già như vậy, thiết tưởng là đến cùng rồi, không còn có khổ đau nào hơn thế!
Lấy chồng già, bất hạnh! Lấy phải chồng trẻ ranh, chị em phụ nữ của chúng ta cũng cảm thấy khổ đau do gặp điều không may mắn.Tác giả bài ca dao ngắn này:
Răng em đen nhưng nhức
Má em đỏ hồng hồng
Phải vâng lời cha mẹ lấy thằng tiu tiu (trẻ con)(3)
đã cho độc giả biết một người con gái xinh đẹp (theo khuôn mẫu, thị hiếu thẩm mỹ của nhân dân ta thời phong kiến) và hiếu thảo, vâng lời cha mẹ, đành phải chấp nhận lấy thằng bé còn quá nhỏ tuổi làm chồng. Sự chệnh lệch về tuổi tác: người phụ nữ, người vợ đã trưởng thành (đã biết trang điểm) má đã đỏ hồng, người nam còn thơ dại (tiu tiu). Như thế, làm sao có cuộc sống vợ chồng hoà hợp, đồng cảm được với nhau? và ở đây còn nói về sự lầm lỡ của người con gái:
Tham giàu em lấy thằng bé tì ti
Làng trên xóm dưới thiếu gì trai to
Em đem thân cho thằng bé nó dày vò
Mùa đông tháng giá nó nằm co trong lòng
Bốn câu đầu này là lời thắc mắc, vặn hỏi, phê phán nhẹ nhàng đượm một nỗi thông cảm, thương mến, xót xa của bạn bè đối với người con gái vì tham giàu mà phải chịu bất hạnh. Những câu tiếp theo của bài ca dao là lời người con gái phải chịu nỗi khổ vì sai lầm đã lấy thằng trẻ ranh:
Cũng đa mang là gái có chồng
Chín đêm chực tiết nằm không cả mười
Em cũng liều mình về thằng bé trẻ ranh
Đêm nằm rờ mó quẩn quanh cho đỡ buồn
Buồn mình em lại bế thằng bé nó lên
Nó còn bé mọn đã nên cơm cháo gì
Nó ngủ nó ngáy tì tì
Một giấc đến sáng còn gì là xuân
Chị em ơi! Hoa nở mấy lần (4)
ở đoạn cuối bài ca dao này, người con gái bất hạnh - nhân vật trữ tình chứ không phải là chính diện - đã tự bộc bạch, giãi bày nỗi khổ đau của mình: có chồng còn quá nhỏ bé cũng vô nghĩa, như không có; thời gian với chồng cô thì trôi đi chậm chạp, chưa đủ để lớn khôn, còn với cô, sao lại trôi nhanh, đến mức làm cho cô sợ tuổi hoa của mình đã đến lúc báo động, sắp lụi tàn. Câu cô hỏi bạn bè “Chị em ơi! Hoa nở mấy lần” đã thể hiện nỗi lo sợ đó của cô.
Chị em phụ nữ của chúng ta còn có nhiều nỗi khổ đau, bất hạnh khác nữa, chẳng hạn, lấy phải người chồng thất đức. Có không ít câu triết luận trong kho tàng ca dao Việt Nam triết lý về điều đó. Hai câu ca dao sau nói về người con gái có nỗi khổ, bất hạnh vì lấy phải anh chồng không có đạo đức, được người bạn trai xúc động, cảm thông và chia sẻ:
Qụa đen lông kêu bằng ô thước
Thấy em có chồng vô phước anh thương(5)
Còn đây là bài ca dao, những lời của một người con gái trách cha mẹ, trách ông trời đã ép uổng, sắp đặt cho cô phải lấy một ông chồng không có đạo đức để cô phải buồn đau và làm cho cô cảm thâý tổn thất, mất mát đi cái đẹp
Hoa sói mà gói xương rồng
Thầy mẹ gả phải người chồng bất nhân
Trách trời ăn ở không cân
Để cho hoa sói đứng sân chịu sầu
Trách trời soi xét nơi đâu
Chả soi cảnh thảm, cảnh sầu này cho(6)
Qua đây, cũng như qua nhiều tác phẩm tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam khác, chúng ta thấy phẩm chất đạo đức của con người là một giá trị được nhân dân ta coi trọng, cho đấy là phẩm chất thuộc về con người, không thể thiếu trong con người.
Lấy phải chồng ngu đần, bất tài, theo tác giả nhiều tác phẩm ca dao Việt Nam, cùng là một sự đau khổ, một nỗi bất hạnh của chị em phụ nữ chúng ta. Những câu triết luận này trong kho tàng ca dao của dân tộc đã nói lên rằng, nhân dân ta, trong đó bao gồm giới nữ, rất coi trọng trí tuệ, vì thế, đã đau khổ, coi như là bất hạnh, khi có người chồng ngu đần, từ đó, dẫn đến những hành động tương tự:
Tiếc thay con người da trắng tóc dài
Bác mẹ gả bán cho người đần ngu
Rồng vàng tắm nước ao tù
Người khôn ở với người ngu nặng mình(7)
Những câu ca dao sau nói về nỗi khổ, bất hạnh của những người phụ nữ Việt Nam có chồng bất tài không làm nên việc gì cho ra hồn, chỉ làm được những việc đớn hèn, vô vị:
“Chồng người vác giáo săn beo
Chồng em vác đũa săn mèo khắp mâm”;
“Chồng người đi ngược về xuôi
Chồng tôi ngồi bếp sờ đuôi con mèo”(8)
Nhận thức, trí tuệ của con người bao giờ cũng có quan hệ biện chứng với hành động của anh ta. Ai đó có nhận thức chính xác, trí tuệ thông minh thì thường có hành động đúng, sáng tạo, hiệu quả cao. Ngược lại, nhận thức sai lầm, trí tuệ tăm tối thì dễ dẫn đến những hành động bất cập, hiệu quả thấp, thậm chí tạo ra những kết quả, sản phẩm không mong muốn.
Chị em phụ nữ Việt Nam còn có nỗi đau, bất hạnh khác nữa, như tác phẩm ca dao của dân tộc đã mô tả, đó là trường hợp lấy phải chồng nghiện ngập, hút hít, cờ bạc. Về vấn đề này, người làm ca dao Việt Nam triết lý:
Lấy chồng gặp phải kẻ tồi
Cho nên lòng những bồi hồi đắng cay
Cả ngày chỉ rượu sưa say
Khi nay thuốc phiện, khi nay tài bàn(9)
Gần như tuyệt đại bộ phận phụ nữ Việt Nam là những con người lao động chăm chỉ, cần mẫn để tạo ra tiền của và biết chi tiêu đúng mức tiền của do mình làm ra. Cũng chính vì vậy mà chị em phụ nữ nếu chẳng may lấy phải chồng rượu chè say sưa, hút xách, bài bạc suốt ngày, thì đau khổ vô cùng nỗi bất hạnh, lo lắng không yên.
Không chỉ có những cô gái, thiếu nữ, người vợ, mà còn có những chàng trai, nam thanh niên, người chồng phải chịu nỗi đau, bất hạnh trong cuộc sống hôn nhân gia đình. Nội dung kho tàng tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam bao gồm nhiều câu triết luận về nỗi buồn chán, khổ đau của những người chồng lấy phải vợ quá thấp kém về giá trị.
Theo sự mô tả của tác giả nguồn văn học nói trên thì người chồng lấy phải vợ chênh lệch về tuổi tác, điều đó làm cho anh ta rất phiền muộn “Trai tơ lấy phải nạ dòng, như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu”(10). Đấy là câu tục ngữ nói về một chàng trai trẻ lần đầu lập gia đình riêng, nhưng không may, lấy phải một người phụ nữ tuổi đã cao, lại đã từng có chồng, có con rồi, vì thế, anh cũng như người triết lý, cảm thấy cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, trở nên vô nghĩa. Dẫu sao thì nỗi buồn chán, khổ đau, bất hạnh này còn được người chồng chịu đựng một cách âm thầm. Nhưng, có nhiều trường hợp khác, người chồng phải lấy người vợ già, hơn mình quá nhiều về tuổi đời, anh ta đã không giấu được nỗi đau khổ, thất vọng, đã có lời ta thán. Hai câu ca dao phản ánh thực tế đó:
Vô duyên lấy phải vợ già
ăn cơm phải đút: “bẩm bà nuốt đi”(11)
Còn lấy vợ chênh lệch về tuổi tác, cụ thể là quá trẻ thì sao? Ca dao, dân ca triết lý, giải đáp điều đó:
Vô phúc lấy phải trẻ ranh
Nó ăn nó bỏ tung hoành nó đi(12)
Tóm lại, theo tác giả tục ngữ, ca dao Việt Nam thì lấy phải vợ hoặc chồng không hoà hợp là nỗi bất hạnh của mỗi con người. Thực tế ấy là hệ quả không tốt lành gì nhưng lại là tất yếu trong chế độ xã hội cũ không cho phép con người được tự do yêu thương, tìm hiểu để đi đến quyết định việc hôn nhân của mình, mà thay vào đó là sự áp đặt vô lối của cha mẹ, gia đình, họ mạc.
Ngày nay, sống và làm việc trong chế độ xã hội mới mang tính ưu việt, tiến bộ nhất trong lịch sử, có nhiều chàng trai trẻ lấy vợ là người lớn tuổi hơn, đã có chồng, có con, và cũng có không ít người đàn ông tìm kiếm những người phụ nữ đáng tuổi cháu con mình để làm bạn trăm năm. Họ vượt qua những mặc cảm về tuổi tác, tự giác, tự nguyện đến với nhau và được chính quyền công nhận. Vì thế, tin và mong rằng những mối tình này sẽ thật sự là những thiên tình sử như báo chí từng viết, chứ không chứa đựng khả năng nảy sinh, phát triển nỗi khổ đau, bất hạnh trong cuộc sống hôn nhân như dưới chế độ xã hội cũ mà người làm tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam đã mô tả./.
______________________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 1+2.2005
(1) Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam (2001), T.IV, Q1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội ,tr.406, tr.730.
(2), (3), (4), (5), (6), (7) Sđd, tr.767, tr.771; tr.635; tr.744; tr.662; tr.470; tr.596
(8), (10) Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ ca dao dân gian Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội, tr.377, tr.393.
(9) Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam (2001), T.IV, Q1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.383.
(11) Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam (2001), T.IV, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.155
(12), (13). Sđd, tr.760; tr.760.
Lê Huy Thực
Bài liên quan
- Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
- Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
[Video] Dấu ấn Cách mạng Tháng Tám qua những hiện vật lịch sử
-
2
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
-
3
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
-
4
Truyền thông đại chúng trong kỷ nguyên số: động lực đổi mới mô hình phát triển xã hội Việt Nam hiện nay
-
5
Tác động của quảng cáo sản phẩm trên mạng xã hội đến hành vi mua sắm của học sinh trung học phổ thông Hà Nội
-
6
Báo chí với xây dựng văn hóa số ở Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là “chiến công hiển hách và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại của dân tộc Việt Nam”(1) trong thế kỷ XX. Đó là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác - Lê-nin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Thắng lợi đã làm giàu thêm truyền thống cách mạng Việt Nam, góp phần bổ sung lý luận về cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Trong suốt hơn hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, tên của Tổng thống Vladimir Putin đã trở thành biểu tượng gắn liền với tiến trình phát triển và chuyển mình của Liên bang Nga. Từ một quốc gia đối mặt với khủng hoảng kinh tế - chính trị nghiêm trọng sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin đã từng bước khôi phục ổn định, nâng cao vị thế quốc tế và củng cố bản sắc quốc gia. Dù vẫn còn không ít tranh cãi, không thể phủ nhận rằng Tổng thống Vladimir Putin đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nước Nga hiện đại như một nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn lao và lâu dài. Bài viết được thực hiện với mục đích phân tích các giai đoạn cầm quyền của ông, từ đó làm rõ những đóng góp, lựa chọn chiến lược và quyết sách của Ông đối với vận mệnh quốc gia. Qua đó, góp phần lý giải vì sao Tổng thống Vladimir Putin được xem là “người sẽ cứu nước Nga” trong thời kỳ chuyển giao và định hình bản sắc, quyền lực quốc gia hậu Xô Viết.
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Công cuộc tinh gọn bộ máy nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước hiện đại, hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả, phục vụ nhân dân. Trong tiến trình đó, công tác cán bộ đóng vai trò trung tâm, bởi cán bộ chính là người tổ chức và thực thi cải cách. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự tương xứng với yêu cầu đổi mới bộ máy nhà nước. Bài viết tiếp cận vấn đề từ nền tảng lý luận Mác, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng để phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn trong đổi mới công tác cán bộ, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống chính trị trong bối cảnh mới.
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh chuyển đổi số y tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn quốc, một số bệnh viện tuyến trung ương đã bước đầu ứng dụng truyền thông số hiệu quả trong tư vấn tâm lý – xã hội, kết nối cộng đồng và vận động nguồn lực, tuy nhiên, phần lớn bệnh viện tuyến tỉnh, huyện chưa có điều kiện triển khai đầy đủ. Bài viết đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tích hợp truyền thông số vào hoạt động công tác xã hội (CTXH) tại bệnh viện, góp phần định hướng phát triển CTXH bệnh viện theo hướng chuyên nghiệp, công bằng và thích ứng với bối cảnh số hóa y tế đến năm 2030.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Theo thống kê trong giai đoạn từ 2013 – 2023 cho thấy độ tuổi kết hôn trung bình của người dân đang có xu hướng tăng(1). Vì vậy, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi này tại Việt Nam. Bài nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi trong độ tuổi kết hôn của người dân Việt Nam, đồng thời phân tích rõ ảnh hưởng của những nhân tố như trình độ học vấn, nền tảng gia đình, địa lý, chi phí sinh hoạt, thu nhập, nghề nghiệp và truyền thông tới việc trì hoãn kết hôn, thông qua dữ liệu từ cuộc khảo sát gồm 736 người trong độ tuổi từ 18 – 35, trải rộng khắp các vùng miền của Việt Nam. Qua đó, nhóm tác giả nêu lên một số đánh giá về tác động của hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ tới sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sau cùng, nhóm tác giả đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề trì hoãn kết hôn của người trẻ Việt Nam hiện nay.
Bình luận