Nên chăng cần đặt lại vấn đề “gia giáo”
Nhân ngày "Gia đình Việt Nam" tôi muốn gợi lại vấn đề "gia giáo", vấn đề giáo dục gia đình trước những thách đố của thực trạng đạo đức xã hội và sự bất cập của hệ thống giáo dục đang là nỗi bức xúc của nhiều người.
Sẽ là một tiếng kèn lạc điệu nếu định bê nguyên xi nội dung khái niệm "gia giáo" của các cụ ta truyền dạy, đem áp đặt một cách khiên cưỡng vào bối cảnh xã hội Việt Nam đang mở cửa bước vào một con đường hội nhập quốc tế trong thế kỷ XXI. Nhưng sẽ là hồi chuông cảnh báo cần thiết phải gióng lên về vai trò của giáo dục gia đình đang hết sức lúng túng trước những thách đố gay gắt của sự xuống cấp đạo đức xã hội cùng với những tật bệnh của nó đang tấn công vào con em chúng ta, nhằm đem lại cho khái niệm "gia giáo" một nội dung thích hợp.
Gia đình là phạm trù xuất hiện sớm nhất trong lịch sử loài người, cũng là thành tựu lâu đời nhất của lịch sử. ấy vậy mà, "hình như đã có một thời, chúng ta cố tình giảm nhẹ vai trò của gia đình trong đời sống con người. Và trong nhà trường, trẻ con ít được nhắc nhở lòng tôn kính ông bà, cha mẹ, tình thương mến ruột rà anh chị em. Trong các tác phẩm văn học, nhân vật thường chỉ là đại diện cho một tập đoàn xã hội, một đoàn thể, một dân tộc...Vậy mà có bao giờ mất đi cái ý nghĩa sống còn của gia đình với đời sống con người " (Ma Văn Kháng)
Cùng với sự nghiệp đổi mới, "cái ý nghĩa sống còn của đời sống gia đình đối với con người" đang ngày càng được nhận thức rõ hơn. Gia đình, giáo dục gia đình được nói đến nhiều hơn, chủ đề gia đình cũng xuất hiện thường xuyên hơn trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Đó là điều đáng mừng. Rồi đây đó, khái niệm gia đình, gia phong thấp thoáng hiện ra, song chỉ đủ sức gợi nhớ về một thời đã qua chứ chưa là một khẳng định về ý nghĩa cần làm sống lại một truyền thống tốt đẹp trong đời sống văn hoá của xã hội ta hôm nay.
Nhưng, rõ ràng giáo dục gia đình từng giữ một vị trí hết sức quan trọng trong cuộc sống của nhân dân ta, đó là một nét văn hoá đáng quý mà chúng ta phải kế thừa. Đương nhiên là sự kế thừa trên quan điểm biện chứng, vừa có sự phủ định vừa có nâng cao.
Xét thật kỹ thì khái niệm "gia giáo" có một sắc thái không hoàn toàn trùng khớp với "giáo dục gia đình" mà chúng ta đang sử dụng. Chính sắc thái ấy cho phép nó thường đi liền với khái niệm "gia phong". Hai khái niệm đó được sử dụng có ẩn chứa một sự tôn kính về truyền thống riêng của những kiểu loại gia đình gắn liền với dòng họ, làm đậm thêm ý nghĩa của thiết chế xã hội đặc thù mang màu sắc dân tộc, một hiện tượng đặc trưng của văn hoá dân tộc.
Trong xã hội ta xưa, vị trí của "người thầy" đứng ở bậc rất cao, chỉ sau vua, trên cả cha, khẳng định truyền thống "tôn sư trọng đạo" của cha ông ta. Không chỉ học trò kính thờ thầy, mà gia đình học trò cũng hết sức tôn kính ông thầy của con mình. Nội dung giáo dục của "thầy" với giáo dục gia đình là thống nhất trong "mục tiêu chủ yếu là giúp cho con em học làm người", song giáo dục gia đình cũng có nét riêng giúp việc hình thành nhân cách cho con em. Đó là kinh nghiệm sống của cha mẹ truyền dạy cho con cháu qua câu chuyện tâm tình trong nhà. Đó là mẹ dạy cho con gái, vì con gái không được cắp sách theo học thầy. Đó là những bài "gia huấn" được một số gia đình thuộc loại "danh gia vọng tộc" soạn riêng để dạy cho con em mình. Nét riêng của một số kiểu loại gia đình tạo thành "gia phong" được truyền dạy và tạo thành niềm tự hào mà con cháu họ cố gắng gìn giữ.
Cũng chính vì thế, khái niệm "gia giáo" ẩn tàng trong đó ý thức tự hào và cổ vũ lòng tự trọng để giữ được "nếp nhà", giữa được "gia phong" để xứng đáng là "con nhà gia giáo". Dưới những biến thái khác nhau, song giáo dục gia đình dù ở bất cứ thời đại nào cũng giữ một vai trò quan trọng trong việc rèn dạy cho con em "nên người". Gây dựng lại nét truyền thống về niềm tự hào của "con nhà gia giáo", cổ vũ cho tinh thần tự trọng để bảo vệ nếp nhà, gìn giữ "gia phong" là điều có thể làm được. Bắt đầu từ một số gia đình nào đó có đủ những yếu tố cần thiết và cộng đồng xã hội nơi đó nên động viên cổ vũ để nhân rộng ra trong nội dung của xây dựng "gia đình văn hoá". Từ "điểm" mà mở rộng ra thành "diện", chuyển dần nội dung "gia đình văn hoá" gắn với "gia giáo, gia phong" để tăng thêm động lực cho từng thành viên trong gia đình phấn đấu, rèn luyện để xứng đáng là "con nhà gia giáo". Thực ra, trong khái niệm "gia đình văn hoá" nên đặt rõ nội dung hình thành và củng cố văn hoá gia đình bằng cách đưa văn hoá vào trong sinh hoạt gia đình, trước hết là trong giáo dục gia đình. Điều này có ý nghĩa lớn đến việc nâng cao dân trí, dân khí và dân chủ trong xã hội. Đó chính là xây dựng truyền thống mới.
"Truyền thống làm nên đặc trưng của bản sắc dân tộc là phần cốt lõi của văn hoá gia đình Việt Nam" (Trần Đình Hượu). "Truyền thống" không là cái nhất thành bất biến. Chẳng hạn như các "con em trong gia đình" cũng đồng thời là những "thành viên của xã hội". Tuy vậy, không thể đem cách ứng xử trong quan hệ gia đình vào các mối quan hệ xã hội, và ngược lại, cũng không thể áp đặt những chuẩn mực ứng xử xã hội vào trong ứng xử gia đình. Bởi lẽ, các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau trong mối thâm tình máu mủ, ruột rà. Quan hệ huyết thống là nét đặc thù phân biệt thiết chế gia đình, khác hẳn với các loại thiết chế xã hội khác. Thế nhưng, trong một thời gian dài quan niệm "nhà" và "nước" chỉ khác nhau về quy mô, không khu biệt về bản thể đã cho phép đưa cách ứng xử trong gia đình áp đặt vào trong xã hội theo lề thói gia trưởng. Cho nên, "con em" trong gia đình phục tùng sự sai khiến của cha mẹ, khi là thành viên trong xã hội, họ cũng là thân phận con em chịu sự sai khiến của các nhà cầm quyền, các bậc "cha chú". Trong sự ưu trội của tính cộng đồng, cá nhân bị che lấp. Cá nhân là thành viên trong gia đình hay là thành viên trong xã hội đều không tự khẳng định được mình với tư cách là cá nhân. Họ hiện diện trong đời sống với tư cách là "con cái nhà ai", "gia thế ra sao", chứ không với tư cách là một "cá nhân công dân". Tính năng động chủ quan của mỗi người bị thui chột vì cái tôi không thể đứng một mình, "nó cứ luôn luôn đi theo chữ anh, chữ bác, chữ ông" (Hoài Thanh).
Cứ hiểu điều đó mới thấy được những "đụng độ" không sao tránh khỏi khi thế hệ trẻ hiện nay muốn tự khẳng định mình thường dễ va chạm với "các bậc cha chú" thường cứ muốn lấy mình làm chuẩn để "con em" phải khuôn theo. ấy thế mà, giải phóng cá nhân là động lực tinh thần của hiện đại hoá. Vấn đề cá nhân - công dân chính là vấn đề có ý nghĩa nền tảng của xã hội hiện đại. Cũng trên ý nghĩa đó, giáo dục gia đình không thể không đặt ra việc hình thành nghiên cứu cá nhân công dân trong xã hội cho con em trong gia đình.
Điều ấy phù hợp với đòi hỏi của thời đại chúng ta đang sống, thời đại của sự khẳng định mạnh mẽ cá nhân: bản sắc, nhân cách, quyền hạn, lợi ích, trách nhiệm và các giá trị cá nhân.
"Gia giáo" tự nó phải mang một nội dung mới trong quan điểm về lễ nghĩa, đạo đức, tính cách, lối ứng xử, cách giao tiếp... Chính vì thế, phải biết "truyền thống hoá hiện đại và hiện đại hoá truyền thống" trong giáo dục gia đình, trong phục hồi trở lại khái niệm "gia giáo, gia phong".
Vấn đề sẽ trở nên thiết thực hơn khi mỗi gia đình tự trang bị cho mình những "kháng thể mạnh" đủ để chống lại những tật bệnh xã hội đang có chiều hướng gia tăng như cơn dịch bệnh "lắc" đang là hiểm họa rình rập đời sống của không ít gia đình đô thị và ven đô, kể cả con em của gia đình nông thôn đang đổ về đô thị ngày càng đông để kiếm việc làm. Nâng cao ý thức trách nhiệm về sự hiểu biết cho những người chủ gia đình, nhen nhúm trở lại một nét đẹp văn hoá của xã hội và gia đình Việt Nam trong việc vun đắp truyền thống gia đình, hình thành nên "nếp nhà" để lấy đó làm điểm tựa cho việc động viên, giáo dục con cháu biết rèn luyện và giữ gìn danh dự của gia đình, không làm xấu đi nét đẹp của "con nhà gia giáo", biết tự hào trong vun đắp, gây dựng "gia phong" chính là tạo nên những "kháng thể mạnh" đó.
Chẳng lẽ đây không là một nét cần thiết và có sức động viên thiết thực mà không phù phiếm khoa trương đối với việc xây dựng "gia đình văn hoá" sao?./.
____________________________
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 4 (tháng 7+8)/2005
Bài liên quan
- Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
- Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
- Tư duy hệ thống về cải cách hành chính trong bối cảnh chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
- Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
5
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
-
6
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
Quảng bá di sản văn hoá phi vật thể (DSVHPVT) là hoạt động truyền thông của các tổ chức văn hóa, cơ quan báo chí truyền thông và cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa… nhằm giới thiệu vẻ đẹp, giá trị của các DSVHPVT đến đông đảo công chúng, từ đó, góp phần nâng cao nhận thức về DSVHPVT, thúc đẩy trách nhiệm gìn giữ, phát huy giá trị di sản ở mỗi tổ chức, cá nhân. Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, các tổ chức văn hóa, cơ quan báo chí truyền thông đang tận dụng các kênh truyền thông số trong quảng bá di sản. Để thực hiện thành công hoạt động này, các chủ thể truyền thông bắt buộc phải nhận diện rõ đặc thù quảng bá của kênh truyền thông số, xác định rõ những nội dung, hình thức, quy trình và các tiêu chí quảng bá phù hợp.
Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
Công tác tư tưởng, lý luận luôn là bộ phận cốt lõi trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, yêu cầu đặt ra là phải đổi mới toàn diện công tác tư tưởng, lý luận để vừa giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, vừa thích ứng linh hoạt với sự thay đổi sâu rộng trong xã hội, khoa học – công nghệ và truyền thông.
Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Tỉnh Lạng Sơn, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, giữ vị trí chiến lược trong công tác bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số. Trong thời gian qua, tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Lạng Sơn đã có những đóng góp tích cực vào quá trình quản lý nhà nước về văn hóa DTTS thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phong trào thanh niên và tham gia giám sát chính sách. Những kết quả đạt được bước đầu thể hiện vai trò nhất định của Đoàn trong việc kết nối giữa chính quyền và thanh niên DTTS. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy nhiều hạn chế như thiếu cơ chế phối hợp, chưa được thể chế hóa vai trò, năng lực cán bộ còn bất cập và thiếu nguồn lực bảo đảm hoạt động bền vững. Trên cơ sở phân tích thực trạng, bài viết tập trung làm rõ vai trò của tổ chức Đoàn trong quản lý nhà nước về văn hóa DTTS tại Lạng Sơn, đồng thời đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy hiệu quả hơn nữa vai trò này trong bối cảnh chuyển đổi mô hình quản trị hiện nay, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững văn hóa vùng dân tộc.
Tư duy hệ thống về cải cách hành chính trong bối cảnh chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam
Tư duy hệ thống về cải cách hành chính trong bối cảnh chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam
Từ ngày 1/7/2025, nước ta chính thức vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp ở tất cả 34 tỉnh, thành phố. Sau sắp xếp lại, việc vận hành mô hình mới, cắt giảm cấp trung gian đòi hỏi phải thay đổi tư duy quản trị, áp dụng tư duy hệ thống trong quản lý, điều hành, cải cách hành chính để mô hình chính quyền địa phương hai cấp thực sự mang lại hiệu quả.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứTư và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức diễn ra mạnh mẽ, việc xây dựng lực lượng sản xuất mới trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam. Trong đó, nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò then chốt, quyết định khả năng tiếp thu, ứng dụng và sáng tạo khoa học – công nghệ, thúc đẩy năng suất lao động, đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Bài viết tập trung làm rõ vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay - nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở nước ta.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận