Nghị quyết Trung ương 15 đưa Cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công
Với âm mưu xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ, ngày 7/7/1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm thay Bửu Lộc làm thủ tướng bù nhìn. Ngô Đình Diệm đã tiến hành đàn áp, khủng bố nhân dân và tàn sát những người kháng chiến cũ. Đầu năm 1955, chính quyền Diệm đã mở “chiến dịch tố cộng”, “diệt cộng” trên toàn miền Nam, coi đây là “quốc sách”, để tiêu diệt những người cộng sản. Trong 4 năm (1955 - 1958): “9/10 cán bộ đảng viên ở miền Nam đã bị tổn thất. Riêng Nam Bộ, chỉ có khoảng 5.000 so với 6.000 đảng viên trước đó. Đồng bằng Liên khu V, có khoảng 40% tỉnh ủy viên, 60% huyện ủy viên, 70% chi ủy viên bị bắt giết hại, 12 huyện không còn cơ sở Đảng…”(1).
Tháng 3/1959, Ngô Đình Diệm công khai tuyên bố miền Nam ở trong tình trạng chiến tranh, huy động toàn bộ quân đội, cảnh sát vào các cuộc hành quân càn quét, đánh vào căn cứ của ta. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã ban hành “Luật 10-59” vào tháng 5/1959, đặt những người cộng sản, những người yêu nước ngoài vòng pháp luật. Chính sách độc tài phát xít của Diệm thực thi ở miền Nam đã làm nảy sinh những mâu thuẫn dẫn tới phong trào đấu tranh của quần chúng chống Mỹ - Diệm. Mỹ - Diệm trở thành kẻ thù trực tiếp không chỉ của nhân dân miền Nam mà còn của cả dân tộc Việt Nam.
Tháng 1/1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) họp Hội nghị lần thứ 15 ra Nghị quyết lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong đó, bàn về phương pháp cách mạng miền Nam là một nội dung quan trọng của Hội nghị, nhiệm vụ cách mạng miền Nam, cụ thể như sau:
“1- Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
2- Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới”(2).
3- Con đường phát triển cơ bản của cách mạng ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, là con đường “lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”(3).
Nghị quyết 15 của ban Chấp hành Trung ương được cán bộ, đảng viên và nhân dân miền Nam khao khát đón nhận. Đã giải tỏa được những đắng cay, uất ức, những thắc mắc, lo âu, cùng với niềm mong đợi của quần chúng bị dồn nén suốt hơn 4 năm. Cán bộ, quần chúng ít ai nghĩ đấu tranh chính trị hay vũ trang là chủ yếu, mà đều bí mật truyền cho nhau tin “Đảng đã cho đánh rồi!”, “phải làm tới”(4). Như vậy, Nghị quyết 15 đã thổi bùng ngọn lửa cách mạng âm ỉ lâu nay thành khí thế đấu tranh sục sôi khắp nông thôn, thành thị và rừng núi của quần chúng. Hoạt động vũ trang phát triển rộng khắp đã hỗ trợ tích cực cho phong trào đấu tranh chính trị, chấm dứt thời kỳ bị động trước sự khủng bố dã man của địch, thổi bùng ngọn lửa “đồng khởi” trên toàn miền Nam.
Từ tháng 2/1959, bùng nổ một đợt phá tề trừ gian xây dựng làng chiến đấu của nhân dân vùng Đông và Tây Bắc Ái (Ninh Thuận), nhân dân vùng B'râu, huyện Bắc Ái nổi dậy phá khu tập trung về buôn làng cũ, tiếp đó, 12 xã trong huyện Bắc Ái nổi dậy phá bỏ kìm kẹp, lập chính quyền, xây dựng đội du kích, tổ chức làng chiến đấu. Ngày 28/8/1959, khởi nghĩa Trà Bồng (Quảng Ngãi), Đảng bộ địa phương lãnh đạo “16.000 đồng bào nổi dậy đấu tranh chính trị, có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, quét sạch ngụy quyền 16 xã, bức địch rút 7 đồn”(5), thành lập chính quyền cách mạng ở cấp thôn dưới hình thức Ủy ban tự quản. Ngày 17/1/1960, tại Bến Tre cuộc “đồng khởi” nổ ra ở 3 xã điểm (Định Thủy, Bình Khánh và Phước Hiệp) rồi lan nhanh ra toàn huyện, hàng vạn quần chúng nhân dân xuống đường vũ trang, quét sạch các tổ chức kìm kẹp của địch, chỉ trong tuần lễ đầu “nhân dân 47 xã đã đồng loạt nổi dậy đập tan bộ máy kìm kẹp của địch, giải phóng 150 ấp, bức rút 47 đồn bốt, giết 300 tên”(6).
Các thôn được giải phóng đã tổ chức Đại hội nông dân, tịch thu ruộng đất chia cho dân cày, thanh niên tham gia lực lượng vũ trang cách mạng. Ngày 26/1/1960, tại Tua Hai, ta nổ súng tấn công địch, diệt 500 tên địch, bắt 500 tên, thu hồi hàng nghìn súng… Chiến thắng này cổ vũ mạnh mẽ nhân dân Nam Bộ vùng dậy giành chính quyền. Đến cuối năm 1960: “tại các tỉnh Nam Bộ, cách mạng đã làm chủ 600 xã trong tổng số 1.298 xã, trong đó có 116 xã hoàn toàn giải phóng. Ở các tỉnh đồng bằng ven Trung Bộ, có 904 trong tổng số 3.829 thôn được giải phóng. Còn ở Tây Nguyên thì có tới 3.200 trong tổng số 5.721 thôn không còn chính quyền ngụy”(7). Cùng với phong trào “đồng khởi” ở nông thôn đã thúc đẩy phong trào đấu tranh ở thành thị, chỉ trong năm 1960 đã có hơn 10 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị.
Phong trào “đồng khởi” thắng lợi, đánh dấu bước phát triển mới của cách mạng miền Nam, chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công liên tục, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, lực lượng chống Mỹ tăng lên nhanh chóng, hình thái lực lượng vũ trang 3 thứ quân xuất hiện từ phong trào “đồng khởi”. Phong trào “đồng khởi” thắng lợi có ý nghĩa chiến lược đầu tiên với cách mạng miền Nam, từ trong phong trào “đồng khởi” ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập tại Tân Lập - Châu Thành - Tây Ninh. Chủ trương của Mặt trận đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm, thành lập chính quyền liên minh dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà./.
___________________________________________________
(1), (6) Lê Mậu Hãn (1999), Đại cương Lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, T.3, tr.157, 166.
(2), (3) Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG - ST, Hà Nội, T.20, tr.81 - 82,82.
(4) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự (2015), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Nxb. CTQG - ST, Hà Nội, T.2, tr.274.
(5),(7) Trần Bá Đệ (2007), Giáo trình Lịch sử Việt Nam (1945-1975), Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr.143, 335.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Quan điểm về trật tự khu vực Đông Á trong chính sách đối ngoại Việt Nam: Trường hợp nhà Lý và hàm ý chính sách cho Việt Nam hiện nay
- Phát huy kế sách “Hưng biên, phú dân” góp phần thực hiện tốt chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay
- Cách tiếp cận phức hợp về an ninh phi truyền thống trong bối cảnh chiến tranh lai và ảnh hưởng sâu rộng của tiến trình chuyển đổi số trong nền an ninh quốc gia (Kỳ 1)
- Cách mạng tháng Tám năm 1945: Bài học về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng
- Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quy luật vận động của thời đại cách mạng dân chủ nhân dân
Xem nhiều
-
1
Phim Tài liệu: Video Khoa xây dựng Đảng 50 năm Xây dựng và Phát triển
-
2
Tác động của truyền thông CSR đến niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng hiện nay
-
3
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
-
4
Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực báo chí - truyền thông trong kỷ nguyên chuyển đổi số
-
5
Sự thay đổi thói quen, nhu cầu tiếp nhận công tin của công chúng phát thanh đô thị và khuyến nghị với các kênh phát thanh
-
6
Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo trong tình hình mới
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức lớn. Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra, ngành Công an nhân dân (CAND) phải không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng toàn diện các mặt công tác, trong đó, giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) đóng vai trò then chốt. Thời gian qua, Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an luôn dành sự quan tâm đặc biệt tới công tác GD&ĐT, nhất là nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên CAND. Thực hiện chủ trương và sự chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng ủy Công an Trung ương và lãnh đạo Bộ Công an, Cục Đào tạo cùng các đơn vị chức năng, các học viện, trường CAND đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Quan điểm về trật tự khu vực Đông Á trong chính sách đối ngoại Việt Nam: Trường hợp nhà Lý và hàm ý chính sách cho Việt Nam hiện nay
Quan điểm về trật tự khu vực Đông Á trong chính sách đối ngoại Việt Nam: Trường hợp nhà Lý và hàm ý chính sách cho Việt Nam hiện nay
Bài viết phân tích quan điểm của Việt Nam về trật tự khu vực Đông Á trong chính sách đối ngoại, tập trung vào trường hợp triều đại nhà Lý (1009 - 1225) và rút ra những hàm ý chính sách cho Việt Nam hiện nay. Đồng thời, bài viết trình bày cơ sở lý luận về hệ thống triều cống - mô hình trật tự lấy Trung Quốc làm trung tâm, nhằm lý giải mối quan hệ Đại Việt - Trung Hoa thời Lý. Nghiên cứu cho thấy, nhà Lý đã vận dụng chiến lược “dĩ nhu chế cương”, duy trì quan hệ triều cống để giữ gìn hòa bình nhưng vẫn kiên quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia trong trật tự khu vực Đông Á do Trung Quốc đứng đầu. Từ tư duy đối ngoại thời Lý, bài viết chỉ ra sự kế thừa trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, đặc biệt trong quan hệ với các nước lớn, ưu tiên hòa bình, hợp tác và bảo vệ lợi ích quốc gia. Từ đó cho thấy sự khác biệt trong quan điểm về trật tự khu vực của Việt Nam xưa và nay; vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục phát huy tinh thần ngoại giao linh hoạt thời Lý, đồng thời thích ứng với bối cảnh quyền lực khu vực đang thay đổi, chủ động tham gia các cơ chế đa phương, đề cao trật tự dựa trên luật pháp quốc tế và tăng cường vai trò trong việc định hình luật lệ chung.
Phát huy kế sách “Hưng biên, phú dân” góp phần thực hiện tốt chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay
Phát huy kế sách “Hưng biên, phú dân” góp phần thực hiện tốt chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay
Trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, vùng biên giới và đồng bào dân tộc thiểu số luôn giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa là phên dậu bảo vệ chủ quyền quốc gia, vừa là không gian sinh tồn gắn liền với sự phát triển của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Từ thực tiễn lịch sử, cha ông ta đã đúc kết kế sách “Hưng biên, phú dân”, coi đó là phương lược để vừa củng cố biên cương vững chắc, vừa chăm lo đời sống nhân dân, tạo nền tảng cho sự ổn định và phát triển đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng và sự nổi lên của các vấn đề an ninh phi truyền thống, việc phát huy giá trị của kế sách này càng trở nên cấp thiết. Không chỉ góp phần bảo vệ Tổ quốc, mà còn thực hiện tốt chính sách dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta hiện nay.
Cách tiếp cận phức hợp về an ninh phi truyền thống trong bối cảnh chiến tranh lai và ảnh hưởng sâu rộng của tiến trình chuyển đổi số trong nền an ninh quốc gia (Kỳ 1)
Cách tiếp cận phức hợp về an ninh phi truyền thống trong bối cảnh chiến tranh lai và ảnh hưởng sâu rộng của tiến trình chuyển đổi số trong nền an ninh quốc gia (Kỳ 1)
Một trật tự toàn cầu mới đang được định hình, điều đó cũng đồng nghĩa với một sự đòi hỏi về cách tiếp cận an ninh mới do những luật chơi mới định hình. Chiến tranh lai cùng với tiến trình chuyển đổi số đang đặt ra một sự tác động đồng thời, thay đổi bản chất sức mạnh của mỗi quốc gia. Bối cảnh mới này đòi hỏi phải có một tư duy mới về an ninh, tư duy phức hợp, để có thể đồng lúc nhìn thấy từ nhiều chiều kích khác nhau, những tác động an ninh trong một tương quan tổng thể. Thay vì tập trung vào các danh mục của các mối đe dọa, ngăn chặn và phòng ngừa, vấn đề an ninh quốc gia hiện nay được chuyển hướng vào một mục tiêu duy nhất đó là an ninh quốc gia tổng thể, việc ngăn chặn và phòng ngừa cũng phải chuyển hướng sang thích ứng và phản ứng linh hoạt hiệu quả trước mọi tình huống, bằng mọi biện pháp và từ mọi điểm tiếp cận. Các trọng tâm chiến lược cho an ninh quốc gia cũng chuyển từ các mục tiêu cụ thể theo thứ bậc ưu tiên, sang việc dịch chuyển liên tục các mục tiêu theo hướng tấn công vào bất kỳ điểm tiếp cận nào có thể làm suy yếu theo hiệu ứng mạng lưới một cách nhanh nhất sức mạnh quốc gia. Những thách thức mới này, do vậy, đòi hỏi chúng ta phải có một cách tiếp cận phức hợp về an ninh và hình thành nên một khái niệm an ninh phi truyền thống mới - trong đó an ninh truyền thống và các vấn đề phi truyền thống hòa nhập thành một tổng thể.
Cách mạng tháng Tám năm 1945: Bài học về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng
Cách mạng tháng Tám năm 1945: Bài học về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là mốc son chói lọi, vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước bước sang kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đồng thời để lại nhiều bài học quý báu về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận