Những nghị quyết quan trọng của Đảng góp phần quyết định thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945
Đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 và sự ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Đường lối đó kết tinh trí tuệ của Trung ương Đảng đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh nhằm thực hiện Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Trong thời kỳ 1939-1945, có 6 nghị quyết quan trọng của Đảng có vai trò quyết định trực tiếp tới thắng lợi. Mỗi nghị quyết được xây dựng trong mỗi hoàn cảnh lịch sử khác nhau, có vị trí, vai trò nhất định, đảm bảo tính phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin và thể hiện tập trung sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là đấu tranh giải phóng dân tộc.
Nghị quyết Trung ương 6 của Đảng ngày 6,7,8.11.1939 được thông qua tại Hội nghị Trung ương do Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ và các đồng chí Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn chủ trì, tại Bà Điểm (Gia Định cũ). Nghị quyết nhận định về chiến tranh thế giới thứ hai và dự báo cách mạng Trung Quốc sẽ thắng “chiến tranh lần này sẽ nung nấu cách mệnh Đông Dương nổ bùng và tiền đồ cách mệnh giải phóng Đông Dương nhất định sẽ quang minh rực rỡ”. Nghị quyết chỉ rõ việc thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương để chống chiến tranh, đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến. Tập trung vào nhiệm vụ lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc và tay sai phản bội quyền lợi dân tộc… Đảng đánh giá khá toàn diện, sâu sắc về vị trí vấn đề dân tộc, thái độ các giai cấp đối với vấn đề dân tộc, kết hợp phong trào giải phóng dân tộc Đông Dương. Chính sách của Đảng cộng sản Đông Dương “không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng độc lập”.
Nghị quyết Trung ương 6 trình bày khá phong phú, toàn diện, những vấn đề lý luận cách mạng cụ thể, dễ thực hiện. Nội dung nghị quyết đánh đấu sự chuyển hướng bước đầu nhưng dứt khoát về chỉ đạo chiến lược cách mạng trong thời kỳ trực tiếp chuẩn bị đấu tranh giải phóng dân tộc.
Hội nghị Trung ương 7 ngày 6, 7, 8, 9.11.1940 tại Đình Bảng (Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ chủ trì nhận định tình hình thế giới và Đông Dương, chỉ rõ kẻ thù lúc này là phát xít Nhật - Pháp và tay sai phản động. “Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập”. Nghị quyết chỉ rõ việc tập trung xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế và đặt hẳn vấn đề mở rộng các đội tự vệ, “trực tiếp võ trang cho dân chúng cùng Đảng tổ chức nhân dân cách mệnh quân, trực tiếp tham gia điều khiển bạo động”. Các cuộc khởi nghĩa Bắc sơn (9.1940), Nam kỳ (11.1940) và cuộc binh biến Đô Lương (1.1941) đã bùng nổ, báo hiệu đấu tranh vũ trang giải phóng của các dân tộc Đông Dương đã bắt đầu
Tháng 2.1941 lãnh tụ Nguyễn ái Quốc về nước. Tháng 5.1941, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 tại Pắc Bó (Cao Bằng). Sau khi phân tích rõ tình hình thế giới và chính sách của Pháp, Nhật, tình hình cách mạng Đông Dương, Nghị quyết chỉ rõ “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Nghị quyết quyết định thành lập Việt Minh, bao gồm tất cả các tổ chức quần chúng cứu quốc. Văn kiện đó đã chỉ rõ các điều kiện và xúc tiến các công việc lớn chuẩn bị lực lượng toàn quốc cho võ trang khởi nghĩa như xây dựng khu căn cứ du kích, tập trung sự lãnh đạo của Đảng với các tổ chức vũ trang, sẵn sàng khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, mở đường cho tổng khởi nghĩa. Nghị quyết chỉ rõ các nội dung về Đảng lãnh đạo Mặt trận Việt Minh.
Nghị quyết Trung ương 8 đã phát triển khá hoàn chỉnh và sâu sắc vấn đề chuyển hướng chỉ đạo chiến lược giải phóng dân tộc. Nó có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945.
Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La (Hà Nội ) tháng 2.1943 chỉ rõ sau 6.1941, tính chất chiến tranh thế giới thay đổi, chiến tranh sẽ phức tạp, quyết liệt, tàn phá dữ dội; Liên Xô cùng phe dân chủ sẽ thắng; Pháp - Nhật sẽ xung đột, phong trào cách mạng sẽ lớn mạnh “có thể bỗng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao”. Nghị quyết chủ trương mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật - Pháp, đặc biệt chủ trương đặt mình vào tình thế khẩn cấp, gấp chuẩn bị khởi nghĩa, tích cực tuyên tuyền, tổ chức tranh đấu, vận động các giới công vận, nông vận, thanh vận, binh vận, phụ vận, vận động phú hào, dân tộc thiểu số, chuẩn bị kế hoạch toàn diện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang sắp tới. “Quân Anh - Mỹ - Trung Quốc sẽ vào Đông Dương diệt Nhật. Khi ấy ta phải lợi đúng dịp tốt khởi nghĩa giành chính quyền đồng thời giao thiệp với Anh - Mỹ - Trung Quốc để họ công nhận quyền tự do độc lập của nhân dân Đông Dương và rút ra khỏi Đông Dương sau khi đã cùng ta đánh bại phát xít Nhật- Pháp ”.
Nghị quyết này là bước phát triển mới và thể hiện sự nhạy bén chính trị, tư duy đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta.
Chỉ thị của Ban thường vụ Trung ương Đảng ngày 12.3.1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ra đời trong bối cảnh Nhật đảo chính Pháp 9.3.1945. Chỉ thị của Trung ương đã nhận xét tình hình, chỉ rõ nguyên nhân, tính chất và mục đích cuộc đảo chính Nhật - Pháp. Các cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa chín muồi nhanh chóng. Thời cơ tiền khởi nghĩa đã đến. Kẻ thù trước mắt, duy nhất là phát xít Nhật. Nhiệm vụ của Đảng là phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước, lãnh đạo toàn dân gấp rút tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Đảng thay khẩu hiệu “Đánh đuổi Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”; mạnh dạn xuống đường đấu tranh với khẩu hiệu “phá kho thóc để giải quyết nạn đói”; phương pháp đấu tranh là chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa, duy trì và mở rộng chiến tranh du kích. Trung ương dự kiến thời cơ tổng khởi nghĩa khi quân Đồng Minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, đã bám chắc, tiến sâu vào đất ta và quân Nhật đã kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng Minh, để phía sau sơ hở. Trung ương còn cảnh báo tinh thần chủ động, phải dựa vào sức mình là chính, không được ỷ lại để nếu quân Đồng Minh chưa đổ bộ, cuộc tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi. Cần tổ chức Uỷ ban quân sự cách mạng, tổ chức huấn luyện theo Chương trình Việt Minh và sẵn sàng hưởng ứng quân Đồng Minh.
Bản Chỉ thị ngày 12.3.1945 thể hiện sự nhạy bén, sáng suốt, chỉ đạo rất kịp thời của Thường vụ Trung ương Đảng, khích lệ cao độ tinh thần vận dụng sáng tạo của các cấp uỷ Đảng và cán bộ, đảng viên trong cao trào kháng Nhật cứu nước và có tác dụng quyết định trực tiếp đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Nghị quyết của toàn quốc Hội nghị Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 14,15.8.1945 ra đời trong bối cảnh tình thế cách mạng đã xuất hiện trực tiếp trên đất nước ta... Nghị quyết chỉ rõ tình hình thế giới và Đông Dương và nêu ra các chủ trương lớn chỉ đạo khởi nghĩa giành độc lập như thành lập Uỷ ban hành chính nơi ta làm chủ; tránh xung đột, giao thiệp thân thiện với quân Mỹ, Anh, Tàu vào nước ta… Đảng chủ trương tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của Liên Xô, của nhân dân Pháp, nhân dân Trung Quốc; lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp, Anh, Mỹ, Tưởng để tránh đối phó nhiều kẻ thù một lúc; nêu các nhiệm vụ tuyên truyền cổ động, đặt Quốc ca và định Quốc kỳ, quyết định nhiều nhiệm vụ tác chiến quân sự quan trọng…
Nghị quyết Hội nghị toàn quốc của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng, thể hiện trí tuệ sáng suốt, sự nhạy bén chính trị, tầm nhìn chiến lược và quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân ta trước giờ phút quyết định vận mệnh của Tổ quốc. Nghị quyết này của Đảng, sau đó là Đại hội quốc dân Tân Trào (16.8) đã chuẩn bị cụ thể, trực tiếp cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 và sự ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Hơn 60 năm đã trôi qua, kể từ khi các Nghị quyết trên của Đảng ra đời chúng ta có nhiều suy nghĩ về phương pháp xây dựng nghị quyết Đảng. Đó là các nghị quyết được xây dựng rất công phu, đúng đắn và sáng tạo. Nội dung rất phong phú. Các nghị quyết đều phân tích kỹ hoàn cảnh lịch sử trong nước, quốc tế, tương quan lực lượng cách mạng, tác động của tình hình đó và dự báo sự phát triển của phong trào cách mạng. Quan điểm và thái độ của Đảng ta trong đánh giá tình hình là thẳng thắn, đúng sự thật. Nêu ra những chủ trương, chính sách lớn, khẩu hiệu, phương pháp và hình thức tiến hành cách mạng. Quan điểm của Đảng là gắn bó cách mạng Việt Nam, Lào và Cămpuchia, nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp cách mạng nước ta với cách mạng thế giới. Đảng ta đều chú trọng việc xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng và củng cố các mặt trận dân tộc thống nhất. Trong bối cảnh phải tổ chức đấu tranh vũ trang và khởi nghĩa giành chính quyền, nghị quyết của Đảng rất chú trọng tới đường lối và nghệ thuật quân sự, dự báo thời cơ và tình thế cách mạng để bám sát và chuẩn bị kỹ khi thời cơ đến… Các nghị quyết Đảng đã phát huy tinh thần độc lập sáng tạo, kịp thời phát hiện những vấn đề mới và uốn nắn những lệch lạc trong quá trình thực hiện.
Hiện nay toàn Đảng đang tiến hành Đại hội Đảng các cấp hướng tới Đại hội X của Đảng. Việc tập trung trí tuệ tập thể các cấp uỷ Đảng, tất cả đảng viên, các nhà khoa học và các tầng lớp nhân dân trong nước, ngoài nước đang nghiên cứu, góp ý kiến vào các dự thảo các văn kiện của Đảng bộ các cấp để trình ra Đại hội, xây dựng thành các nghị quyết mới có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tinh thần của các nghị quyết đúng đắn, sáng tạo dẫn tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 giúp chúng ta có tinh thần trách nhiệm hơn trong việc xây dựng nghị quyết, hình thành đường lối cách mạng trong thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. /.
________________________
(1) Văn kiện Đảng (2000), Toàn tập, T.7, Nxb. CTQG, tr.58
(2) Sđd - T.7, tr.113.
(3) Sđd - T.7, tr.314.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 5 (tháng 9+10)/2005
Bài liên quan
- Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
- Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
- Nhận diện và xử lý những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong sách tôn giáo
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Chiều 31/10, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo sư, Tiến sỹ Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3).
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do các yếu tố chủ quan và khách quan mang lại. Lan toả các giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiếp tục đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vấn đề của hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay là làm sao thu hút được sự quan tâm của đại bộ phận nhân dân, để nhân dân tin tưởng và làm theo Đảng thông qua những nội dung gần gũi, sinh động, hấp dẫn và hiện đại. Hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt truyền thông xã hội và hiện tượng truyền thông hoá.
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả là một biến thể nguy hại của chủ nghĩa cá nhân, trái ngược với những yêu cầu về phẩm chất đích thực và đạo đức cách mạng. Vì vậy, ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả là loại bỏ những thói hư tật xấu đang ngấm ngầm làm tha hóa cán bộ, đảng viên. Chống uy tín giả cũng là chống chủ nghĩa cá nhân, củng cố uy tín đích thực của người cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả nảy sinh, xâm nhập, lây lan trong đời sống chính trị, xã hội do nhiều nguyên nhân, trong đó, yếu tố chủ quan của tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên là nguyên nhân trực tiếp, phổ biến.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Một trong những nguy cơ ngấm ngầm tạo ra sự ghen ghét, đố kỵ, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, làm suy yếu tổ chức, suy yếu tập thể là uy tín giả. Nghiêm trọng hơn, nó còn thúc đẩy sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân rất nguy hại. Suy rộng ra, uy tín giả hủy hoại nghiêm trọng thanh danh của Đảng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta nếu không được nhận diện, đấu tranh, ngăn chặn.
Bình luận