Phác thảo phân kỳ 80 năm báo chí cách mạng Việt Nam
Có thể nói báo chí Việt Nam ra đời do nhu cầu tất yếu và cấp bách của cuộc cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc khỏi ách ngoại xâm và sự đô hộ của đế quốc, phong kiến, mang lại tự do, hoà bình và cơm no, áo ấm cho nhân dân. Vì thế, báo chí cách mạng đã đồng hành với lịch sử dân tộc 80 năm qua, lịch sử báo chí cách mạng cũng gắn bó hữu cơ, thực sự là một bộ phận không thể tách rời của tiến trình cách mạng 80 năm qua. Từ cách nhìn như thế, có thể phân kỳ lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam thành các thời kỳ:
- Thời kỳ vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
- Thời kỳ 1930 – 1945,
- Thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954,
- Thời kỳ xây dựng CNXH ở miền Bắc và chiến tranh chống Mỹ cứu nước 1955 – 1975,
- Thời kỳ 1976 đến nay.
1. Báo chí cách mạng Việt Nam thời kỳ vận động thành lập Đảng 1925 - 1930 ra đời và hoạt động trong hoàn cảnh rất khó khăn. Bọn thực dân xâm lược câu kết với bộ máy phong kiến thiết lập một hệ thống cai trị xã hội khắc nghiệt, đàn áp không thương tiếc mọi mầm mống cách mạng đe doạ sự thống trị của chúng. Những tổ chức cách mạng ở nước ngoài đã xuất bản một loạt tờ báo như: Thanh niên, Đỏ, Công nông, Lính kách mệnh, Đồng thanh, Thân ái, v.v.. ở trong nước, trong điều kiện vô cùng khó khăn nguy hiểm do sự kiểm duyệt, đàn áp, bắt bớ của chính quyền thực dân và tay sai, nhiều tờ báo của các tổ chức cách mạng vẫn được xuất bản và bí mật lưu hành như: Búa liềm, Cờ Cộng sản, Nhân loại của Đông Dương Cộng sản Đảng, Cờ đỏ của An Nam Cộng sản Đảng, Sao đỏ ở Hải Phòng, Mỏ than ở Hồng Quảng, Tia sáng ở Nam Định, Bôn-sê-vích ở Trung Kỳ. Những tờ báo này không chỉ mang đến cho một bộ phận quần chúng cách mạng những hiểu biết cơ bản nhất về Chủ nghĩa Mác-Lênin, về con đường giải phóng dân tộc, mà nó còn mang đến cho những người dân nô lệ một niềm tin, sự động viên to lớn để lựa chọn, dấn thân vào con đường cách mạng, con đường đấu tranh giải phóng cho mình.
Tờ báo có ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong thời kỳ này là Thanh niên do Nguyễn ái Quốc sáng lập, trực tiếp viết bài, biên tập và tổ chức in ấn. Thanh niên được coi là cơ quan của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, một tổ chức cách mạng tiền thân của Đảng Cộng sản, đồng thời là tờ báo khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam. Báo Thanh niên trở thành tờ báo đầu tiên của những người cách mạng, xuất bản bằng chữ quốc ngữ, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc vào Việt Nam. Báo Thanh niên còn đóng vai trò là một trường học, đào tạo những cán bộ cách mạng để đưa về trong nước vận động quần chúng, giáo dục, chuẩn bị lực lượng tiến tới thành lập Đảng Cộng sản.
2. Báo chí cách mạng Việt Nam thời kỳ 1930 – 1945 gắn bó chặt chẽ với những cao trào vận động cách mạng trong thời kỳ này: 1930 – 1931 - đỉnh cao là Xô-Viết Nghệ Tĩnh, 1936 – 1939 – Mặt trận dân chủ và 1941 – 1945 – vận động tiến tới Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và thực dân Pháp, xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam châu á. Trong cao trào 1930-1931, các tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương đều xuất bản báo để làm công cụ tuyên truyền vận động. Các tờ báo này đều được xuất bản dưới hình thức rất thô sơ, chủ yếu là viết tay in giấy sáp, hoặc in thạch. Nếu các sản phẩm báo chí xuất hiện trong cao trào 1930 – 1931 chủ yếu dưới hình thức bí mật, thì trong cao trào Mặt trận dân chủ, Đảng đã chớp lấy thời cơ, tổ chức ra báo công khai hoặc đưa cán bộ tham gia làm các báo đã có để tranh thủ khả năng mở rộng quy mô tác động vào quần chúng nhân dân, tuyên truyền vận động lực lượng cách mạng. Các tổ chức Đảng ở các địa phương đã trực tiếp tổ chức ra các báo: Travaille, Avant Garde, Peuple, Dân chúng, Tin tức, Đời nay, Dân, Dân tiến, Ngày mới, Nhành lúa v.v…
Đầu năm 1941, Nguyễn ái Quốc về nước và một trong những việc làm đầu tiên của Người là ra tờ báo Việt Nam độc lập là cơ quan tuyên truyền vận động cách mạng. Theo Người, việc ra báo Việt Nam độc lập là làm theo lời dạy của Lênin: “tờ báo là công cụ tuyên truyền, cổ động, tổ chức và lãnh đạo”(Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ hai, Hội nhà báo Việt Nam). Việt Nam độc lập trở thành cơ quan của Mặt trận Việt Minh ba tỉnh Cao – Bắc – Lạng. Cùng với Việt Nam độc lập còn có Tạp chí Cộng sản, báo Giải phóng, Cờ giải phóng, Cứu quốc, Lao động, Bẻ xiềng sắt v.v.. Hệ thống báo chí cách mạng thời kỳ này đã truyền bá những tư tưởng của cách mạng giải phóng, cổ vũ, động viên lòng yêu nước căm thù thực dân đế quốc xâm lược và giai cấp phong kiến bóc lột, góp phần tổ chức quần chúng cách mạng, chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi.
Ngoài hệ thống báo chí công khai hoặc bí mật, thời kỳ này còn xuất hiện các tờ báo trong tù. Hầu như ở nhà tù nào, các chiến sỹ cộng sản và những người cách mạng yêu nước cũng tìm cách để ra được báo. Các tờ báo trong các nhà tù như: Con đường chính, Lao tù đỏ, Lao tù tạp chí của tổ chức Đảng Cộng sản ở nhà tù Hoả Lò, Xiềng xích của tù chính trị ở nhà tù Buôn Ma Thuột, Nẻo nhà pha của tù chính trị nhà tù Quảng Ngãi, Người tù đỏ, Người tù nhân, Tiền phong của tù cộng sản ở Côn Đảo, Tiến lên của tù chính trị ở nhà tù Quảng Trị v.v.. được chép tay với vài ba bản, thậm chí mỗi số chỉ có một bản duy nhất, được lưu hành bí mật trong điều kiện kiểm soát gắt gao, khắc nghiệt của cai ngục. Có những tờ báo trong nhà tù nhưng đã có thời gian tồn tại tương đối dài, để lại ấn tượng mạnh, có tác động tích cực đến phong trào đấu tranh như tờ Suối reo ở nhà tù Sơn la. Mặc dù phạm vi lưu hành hạn hẹp trong các bức tường nhà tù đế quốc thực dân nhưng những tờ báo này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, củng cố ý chí và niềm tin, giữ vững tinh thần chiến đấu cho những cán bộ cách mạng bị tù đày.
3. Báo chí cách mạng thời kỳ 1945 – 1954 là một bộ phận không thể thiếu của cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945 cũng như tiến trình của cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược và bọn can thiệp Mỹ. Với thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền về tay nhân dân và báo chí có thời cơ phát triển mới. Chế độ mới, nền độc lập tự do cùng những nhiệm vụ mới mẻ của cách mạng đặt ra cho báo chí những trách nhiệm mới nặng nề hơn, tầm hoạt động mới rộng lớn hơn. Sự ra đời của Đài phát thanh và Hãng thông tấn quốc gia đã mang lại không chỉ sự thay đổi diện mạo mà cả chất lượng hoạt động mới cho hệ thống báo chí cách mạng. Khi cuộc Kháng chiến chống Pháp nổ ra, cả hệ thống báo chí ấy đã lên đường đi kháng chiến, lên chiến khu Việt Bắc, vào bưng biền Đồng Tháp, tới các chiến khu, trở thành nguồn thông tin chính yếu, nguồn động viên cổ vũ mạnh mẽ, vũ khí tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cách mạng của Đảng, của dân tộc. Chính trong thử thách khắc nghiệt của kháng chiến, một loạt cơ quan báo chí mới đã ra đời – Sự thật, Nhân dân, Văn nghệ, Quân đội nhân dân, Đài tiếng nói Nam bộ, báo Nhân dân miền Nam, Lao động, Tiền phong v.v…
Những người làm báo cách mạng trong kháng chiến chống Pháp đã chia sẻ khó khăn, gian khổ, hy sinh cùng nhân dân, quân đội, đã không chỉ duy trì phát triển, đưa nguồn thông tin, tiếng nói của cách mạng, của kháng chiến đến với đồng bào chiến sỹ trong nước và bè bạn quốc tế mà còn gùi vác, vận chuyển cả chục tấn máy in, máy phát trên vai, trực tiếp cầm súng chống càn như những người chiến sỹ. Bằng trí tuệ, tài năng, lòng yêu nước và cả máu, mồ hôi, những người làm báo kháng chiến đã hoàn thành trách nhiệm của mình, đóng góp xứng đáng vào chiến thắng chung của cả dân tộc - đánh bại thực dân xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ, làm nên một Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
4. Báo chí cách mạng thời kỳ 1955 – 1975 đã có cơ hội thuận lợi hơn để phát triển nhưng cũng phải đối mặt với những khó khăn, thử thách vô cùng khắc nghiệt. Miền Bắc giải phóng bước vào thời kỳ xây dựng CNXH nhưng chưa hết một kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã phải đối mặt với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ với mức độ ác liệt và dã man chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh. Một nửa Tổ quốc – miền Nam nằm dưới sự đô hộ của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng bảo vệ CNXH ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc xâm lược, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Ngoài một thời gian ngắn miền Bắc có hoà bình sau hiệp định Giơ-ne-vơ, còn lại trên thực tế suốt cả thời kỳ này cả nước đều có chiến tranh.
Trong thời kỳ này, trong nước có hai bộ phận báo chí cùng hướng tới mục tiêu đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Đó là bộ phận báo chí cách mạng ở miền Bắc được phát triển trong điều kiện của chế độ dân chủ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và bộ phận báo chí cách mạng ở miền Nam, phát triển trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn của chiến tranh và sự khủng bố, đàn áp của đội quân xâm lược Mỹ cùng chế độ Nguỵ quyền Sài Gòn. Riêng miền Bắc, vào thời điểm trước thềm Đại hội lần thứ 3 Hội nhà báo Việt Nam (1962), đã có 1500 nhà báo làm việc trong khoảng 120 cơ quan báo chí các loại. Báo chí thời kỳ này đã thực sự trở thành động lực góp phần to lớn trong việc tạo dựng và tổ chức những phong trào thi đua, những cuộc vận động rầm rộ trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính trị như: Sóng Duyên Hải, Gió Đại Phong, Cờ ba nhất, Thanh niên ba sẵn sàng, Phụ nữ ba đảm đang, Thi đua hai tốt, HTX 5 tấn v.v Những tấm gương điển hình trong lao động, chiến đấu được báo chí tuyên truyền, khái quát thành những biểu tượng có sức động viên, cổ vũ mạnh mẽ.
Báo chí cách mạng ở miền Nam – như “Báo chí tiền phương” đã bám sát thực tế chiến đấu, có mặt ngay tại các chiến hào, tại các mặt trận ác liệt nhất, phản ánh sinh động, kịp thời cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào, chiến sỹ ta. Các nhà báo tiền phương thực sự là những chiến sỹ ra trận, vừa cầm súng, vừa cầm bút, cầm máy ảnh, máy quay phim, đóng góp xứng đáng vào chiến thắng chung của dân tộc trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Cùng với báo chí cách mạng hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, Mặt trận, lực lượng báo chí của những người yêu nước ở các đô thị miền Nam cũng đã góp tiếng nói đáng kể trong việc động viên lòng yêu nước, tự hào dân tộc, giống nòi, ủng hộ và cổ vũ cho những cuộc đấu tranh yêu nước hợp pháp của các tầng lớp nhân dân.
5. Báo chí Việt Nam từ 1975 đến nay trở thành nền báo chí duy nhất của nước Việt Nam dân chủ, tự do, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước. Sau năm 1975 – Tổ quốc thống nhất, non sông thu về một mối, báo chí cách mạng Việt Nam cũng được hưởng niềm vui tự do, thống nhất, có điều kiện phát triển toàn diện cũng như phân bố rộng khắp trong các vùng của cả nước. Cùng cả dân tộc vượt qua những khó khăn thử thách của cuộc Chiến tranh biên giới Tây Nam, Chiến tranh biên giới phía Bắc và sự chống phá quyết liệt của kẻ thù, báo chí lại có mặt ở những điểm nóng nhất của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, trở thành bà đỡ cho những cuộc cách mạng thực sự trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Sự ra đời của của cơ chế khoán 100 năm 1981 và khoán 10 năm 1987, sự đổi mới cơ chế quản lý trong các cơ sở sản xuất công nghiệp, dịch vụ cũng như quá trình chuẩn bị cho sự ra đời của chính sách đổi mới của Đảng không thể tách rời vai trò và đóng góp vô cùng quan trọng của báo chí trong việc thông tin, phản ánh thực trạng và các sáng kiến, phát hiện các vấn đề, các nhân tố mới tích cực, những đốm sáng trong thực tiễn lao động sản xuất của nhân dân. Đến lượt nó, chính sách đổi mới của Đảng đã tạo ra điều kiện, thời cơ cho sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế – xã hội, đồng thời mang lại cơ hội lớn cho báo chí. Chỉ trong khoảng 20 năm đổi mới, nền báo chí đất nước đã lớn lên cả chục lần, đã có những bước phát triển chưa từng thấy về kỹ thuật công nghệ, về quy mô ảnh hưởng cũng như trình độ tác nghiệp. ở một số bình diện cụ thể, báo chí Việt Nam đã bắt kịp trình độ phát triển hiện đại, hội nhập với các đồng nghiệp khu vực và quốc tế.
Trên phạm vi cả nước, chúng ta đã có gần 14.000 nhà báo chuyên nghiệp cùng hàng chục nghìn cán bộ kỹ thuật, dịch vụ làm việc trong các loại hình báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử, thông tấn xã với trên 600 tên báo, tạp chí, gần 1.000 bản tin, phụ trương các loại, hệ thống đài phát thanh, truyền hình quốc gia và 64 tỉnh, thành phố, hàng trăm tờ báo mạng điện tử với gần 7% dân số sử dụng internet… Nền báo chí ngày càng giữ vai trò to lớn, không thể thiếu trong đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội của đất nước. Báo chí không chỉ là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, tuyên truyền, giải thích vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách, mà còn là trường học rộng lớn nâng cao dân trí, mở mang quan hệ quốc tế, định hướng chính trị tư tưởng cho nhân dân trước các sự kiện, vấn đề mới mẻ trong nước cũng như quốc tế. Trong mặt trận chống tiêu cực, báo chí như những người chiến sỹ tiên phong, dũng cảm phát hiện vạch trần nhiều vụ việc, góp phần ngăn chặn thiệt hại cho nhà nước, nhân dân, gióng lên những tiếng chuông cảnh tỉnh, giáo dục đối với xã hội.
Tuy nhiên, báo chí của chúng ta hiện nay vẫn còn bộc lộ không ít những hạn chế. Đó là xu hướng chạy theo những mục đích thương mại hoá, không thực hiện nghiêm túc tôn chỉ, mục đích, còn có hiện tượng đưa tin thiếu chính xác hay lợi dụng hoạt động báo chí để thực hiện những mục đích cá nhân, đưa tin thiếu cảnh giác gây tác hại đến lợi ích của đất nước hay các đơn vị kinh tế v.v… Còn có những sản phẩm báo chí có chất lượng thấp, chạy theo thị hiếu tầm thường, không yên tâm thậm chí ảnh hưởng không tốt đến môi trường giáo dục thanh – thiếu niên.
Mỗi thời kỳ phát triển của báo chí cách mạng Việt Nam trong 80 năm qua không chỉ chịu sự chi phối có tính phụ thuộc vào đặc điểm tình hình, vào yêu cầu của việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của cách mạng, mà còn là tấm gương phản chiếu trung thực, khách quan, còn trở thành một lực lượng đáng kể, một động lực phát triển quan trọng của từng sự kiện, biến cố cũng như toàn bộ tiến trình lịch sử của đất nước. Vì thế có thể nói, việc phân kỳ lịch sử báo chí cách mạng theo các giai đoạn của tiến trình lịch sử dân tộc là phương pháp phổ biến, hợp lý và dễ chấp nhận. Nó cho phép nhìn nhận, đánh giá khách quan, đúng đắn diện mạo, đặc điểm cũng như vai trò của báo chí đối với thực tiễn lịch sử./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 5 (tháng 9+10)/2005
Bài liên quan
- Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
- Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
- Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
- Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
- Một số giải pháp cải thiện hoạt động khai thác, xuất bản sách tinh gọn tại Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển”
Sáng 24/10/ 2024, tại Hà Nội, Học viện Báo chí và Tuyên truyền tổ chức Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển (1994 - 2024)”.
Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
Trong bối cảnh du lịch ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, việc phát triển du lịch bền vững tại Khánh Hòa đòi hỏi sự tham gia chủ động của cả chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng địa phương (CĐĐP). Quản trị truyền thông không chỉ góp phần xây dựng hình ảnh Khánh Hòa là một điểm đến bền vững, mà còn trở thành công cụ quan trọng trong việc kết nối các bên liên quan, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường và bảo tồn văn hóa bản địa. Bài báo khoa học này tập trung hệ thống hóa và đánh giá tiềm năng du lịch cộng đồng (DLCĐ) tại tỉnh Khánh Hòa, đồng thời đề xuất các giải pháp quản trị truyền thông hiệu quả nhằm phát triển DLCĐ một cách đồng bộ, giúp du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và đúng định hướng chiến lược, trong đó DLCĐ đóng vai trò cốt lõi. Kết quả nghiên cứu được thu thập thông qua các phương pháp như: phỏng vấn sâu; phương pháp khảo sát; phân tích, tổng hợp và so sánh dữ liệu; xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS.22.0.
Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
Cuộc cách mạng 4.0 đang tạo ra sự thay đổi sâu rộng trong ngành truyền hình với sự xuất hiện của truyền hình đa nền tảng. Khác với truyền hình truyền thống, truyền hình đa nền tảng đã và đang định hình lại cách thức tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung thông qua các đặc trưng nổi bật như tính thời sự, khả năng lan truyền thông tin nhanh chóng, tính đa dạng và tương tác cao, quản lý và lưu trữ hiệu quả. Vận hành một mô hình sản xuất truyền hình đa nền tảng cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, trong đó nhấn mạnh đến các nguyên tắc về thông tin chính xác, kết hợp sản xuất nội dung với công nghệ mới, phát triển đa dạng các nền tảng...
Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
Bài viết nghiên cứu về tác động của truyền thông xã hội đối với hoạt động báo chí hiện nay, tập trung vào sự thay đổi trong hoạt động sản xuất, phân phối tin tức và cấu trúc nội dung báo chí. Truyền thông xã hội đã trở thành một nguồn tin phong phú, đa chiều và nhanh chóng, làm thay đổi đáng kể cách thức thu thập và truyền tải thông tin. Tuy nhiên, tính xác thực của nguồn tin mạng xã hội vẫn là một thách thức, đòi hỏi báo chí phải chú trọng vào việc kiểm chứng và phản hồi thông tin một cách chính xác. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất báo chí cần phát triển nội dung chất lượng cao, tăng cường kỹ năng công nghệ số của phóng viên và xây dựng các nền tảng số riêng để giảm sự phụ thuộc vào truyền thông xã hội, đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy trong kỷ nguyên số.
Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
Ngày 17/11/2017, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Quan điểm chỉ đạo được nhấn mạnh trong Nghị quyết (NQ) là: “…chủ động thích ứng, phát huy tiềm năng, thế mạnh, chuyển hóa những thách thức thành cơ hội để phát triển, bảo đảm được cuộc sống ổn định…” (1). NQ này đã được các cơ quan liên quan, trong đó có các cơ quan báo chí quán triệt, triển khai thực hiện. Tuy nhiên, để “chuyển hóa những thách thức thành cơ hội”, nhất là với vùng đồng bằng sông Cửu Long, để phát triển bền vững, an toàn, thịnh vượng thì vai trò, trách nhiệm của báo chí cần được nhận thức đầy đủ, chủ động hơn.
Bình luận