Phác thảo phân kỳ 80 năm báo chí cách mạng Việt Nam
Có thể nói báo chí Việt Nam ra đời do nhu cầu tất yếu và cấp bách của cuộc cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc khỏi ách ngoại xâm và sự đô hộ của đế quốc, phong kiến, mang lại tự do, hoà bình và cơm no, áo ấm cho nhân dân. Vì thế, báo chí cách mạng đã đồng hành với lịch sử dân tộc 80 năm qua, lịch sử báo chí cách mạng cũng gắn bó hữu cơ, thực sự là một bộ phận không thể tách rời của tiến trình cách mạng 80 năm qua. Từ cách nhìn như thế, có thể phân kỳ lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam thành các thời kỳ:
- Thời kỳ vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
- Thời kỳ 1930 – 1945,
- Thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954,
- Thời kỳ xây dựng CNXH ở miền Bắc và chiến tranh chống Mỹ cứu nước 1955 – 1975,
- Thời kỳ 1976 đến nay.
1. Báo chí cách mạng Việt Nam thời kỳ vận động thành lập Đảng 1925 - 1930 ra đời và hoạt động trong hoàn cảnh rất khó khăn. Bọn thực dân xâm lược câu kết với bộ máy phong kiến thiết lập một hệ thống cai trị xã hội khắc nghiệt, đàn áp không thương tiếc mọi mầm mống cách mạng đe doạ sự thống trị của chúng. Những tổ chức cách mạng ở nước ngoài đã xuất bản một loạt tờ báo như: Thanh niên, Đỏ, Công nông, Lính kách mệnh, Đồng thanh, Thân ái, v.v.. ở trong nước, trong điều kiện vô cùng khó khăn nguy hiểm do sự kiểm duyệt, đàn áp, bắt bớ của chính quyền thực dân và tay sai, nhiều tờ báo của các tổ chức cách mạng vẫn được xuất bản và bí mật lưu hành như: Búa liềm, Cờ Cộng sản, Nhân loại của Đông Dương Cộng sản Đảng, Cờ đỏ của An Nam Cộng sản Đảng, Sao đỏ ở Hải Phòng, Mỏ than ở Hồng Quảng, Tia sáng ở Nam Định, Bôn-sê-vích ở Trung Kỳ. Những tờ báo này không chỉ mang đến cho một bộ phận quần chúng cách mạng những hiểu biết cơ bản nhất về Chủ nghĩa Mác-Lênin, về con đường giải phóng dân tộc, mà nó còn mang đến cho những người dân nô lệ một niềm tin, sự động viên to lớn để lựa chọn, dấn thân vào con đường cách mạng, con đường đấu tranh giải phóng cho mình.
Tờ báo có ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong thời kỳ này là Thanh niên do Nguyễn ái Quốc sáng lập, trực tiếp viết bài, biên tập và tổ chức in ấn. Thanh niên được coi là cơ quan của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, một tổ chức cách mạng tiền thân của Đảng Cộng sản, đồng thời là tờ báo khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam. Báo Thanh niên trở thành tờ báo đầu tiên của những người cách mạng, xuất bản bằng chữ quốc ngữ, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc vào Việt Nam. Báo Thanh niên còn đóng vai trò là một trường học, đào tạo những cán bộ cách mạng để đưa về trong nước vận động quần chúng, giáo dục, chuẩn bị lực lượng tiến tới thành lập Đảng Cộng sản.
2. Báo chí cách mạng Việt Nam thời kỳ 1930 – 1945 gắn bó chặt chẽ với những cao trào vận động cách mạng trong thời kỳ này: 1930 – 1931 - đỉnh cao là Xô-Viết Nghệ Tĩnh, 1936 – 1939 – Mặt trận dân chủ và 1941 – 1945 – vận động tiến tới Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và thực dân Pháp, xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam châu á. Trong cao trào 1930-1931, các tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương đều xuất bản báo để làm công cụ tuyên truyền vận động. Các tờ báo này đều được xuất bản dưới hình thức rất thô sơ, chủ yếu là viết tay in giấy sáp, hoặc in thạch. Nếu các sản phẩm báo chí xuất hiện trong cao trào 1930 – 1931 chủ yếu dưới hình thức bí mật, thì trong cao trào Mặt trận dân chủ, Đảng đã chớp lấy thời cơ, tổ chức ra báo công khai hoặc đưa cán bộ tham gia làm các báo đã có để tranh thủ khả năng mở rộng quy mô tác động vào quần chúng nhân dân, tuyên truyền vận động lực lượng cách mạng. Các tổ chức Đảng ở các địa phương đã trực tiếp tổ chức ra các báo: Travaille, Avant Garde, Peuple, Dân chúng, Tin tức, Đời nay, Dân, Dân tiến, Ngày mới, Nhành lúa v.v…
Đầu năm 1941, Nguyễn ái Quốc về nước và một trong những việc làm đầu tiên của Người là ra tờ báo Việt Nam độc lập là cơ quan tuyên truyền vận động cách mạng. Theo Người, việc ra báo Việt Nam độc lập là làm theo lời dạy của Lênin: “tờ báo là công cụ tuyên truyền, cổ động, tổ chức và lãnh đạo”(Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ hai, Hội nhà báo Việt Nam). Việt Nam độc lập trở thành cơ quan của Mặt trận Việt Minh ba tỉnh Cao – Bắc – Lạng. Cùng với Việt Nam độc lập còn có Tạp chí Cộng sản, báo Giải phóng, Cờ giải phóng, Cứu quốc, Lao động, Bẻ xiềng sắt v.v.. Hệ thống báo chí cách mạng thời kỳ này đã truyền bá những tư tưởng của cách mạng giải phóng, cổ vũ, động viên lòng yêu nước căm thù thực dân đế quốc xâm lược và giai cấp phong kiến bóc lột, góp phần tổ chức quần chúng cách mạng, chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi.
Ngoài hệ thống báo chí công khai hoặc bí mật, thời kỳ này còn xuất hiện các tờ báo trong tù. Hầu như ở nhà tù nào, các chiến sỹ cộng sản và những người cách mạng yêu nước cũng tìm cách để ra được báo. Các tờ báo trong các nhà tù như: Con đường chính, Lao tù đỏ, Lao tù tạp chí của tổ chức Đảng Cộng sản ở nhà tù Hoả Lò, Xiềng xích của tù chính trị ở nhà tù Buôn Ma Thuột, Nẻo nhà pha của tù chính trị nhà tù Quảng Ngãi, Người tù đỏ, Người tù nhân, Tiền phong của tù cộng sản ở Côn Đảo, Tiến lên của tù chính trị ở nhà tù Quảng Trị v.v.. được chép tay với vài ba bản, thậm chí mỗi số chỉ có một bản duy nhất, được lưu hành bí mật trong điều kiện kiểm soát gắt gao, khắc nghiệt của cai ngục. Có những tờ báo trong nhà tù nhưng đã có thời gian tồn tại tương đối dài, để lại ấn tượng mạnh, có tác động tích cực đến phong trào đấu tranh như tờ Suối reo ở nhà tù Sơn la. Mặc dù phạm vi lưu hành hạn hẹp trong các bức tường nhà tù đế quốc thực dân nhưng những tờ báo này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, củng cố ý chí và niềm tin, giữ vững tinh thần chiến đấu cho những cán bộ cách mạng bị tù đày.
3. Báo chí cách mạng thời kỳ 1945 – 1954 là một bộ phận không thể thiếu của cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945 cũng như tiến trình của cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược và bọn can thiệp Mỹ. Với thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền về tay nhân dân và báo chí có thời cơ phát triển mới. Chế độ mới, nền độc lập tự do cùng những nhiệm vụ mới mẻ của cách mạng đặt ra cho báo chí những trách nhiệm mới nặng nề hơn, tầm hoạt động mới rộng lớn hơn. Sự ra đời của Đài phát thanh và Hãng thông tấn quốc gia đã mang lại không chỉ sự thay đổi diện mạo mà cả chất lượng hoạt động mới cho hệ thống báo chí cách mạng. Khi cuộc Kháng chiến chống Pháp nổ ra, cả hệ thống báo chí ấy đã lên đường đi kháng chiến, lên chiến khu Việt Bắc, vào bưng biền Đồng Tháp, tới các chiến khu, trở thành nguồn thông tin chính yếu, nguồn động viên cổ vũ mạnh mẽ, vũ khí tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cách mạng của Đảng, của dân tộc. Chính trong thử thách khắc nghiệt của kháng chiến, một loạt cơ quan báo chí mới đã ra đời – Sự thật, Nhân dân, Văn nghệ, Quân đội nhân dân, Đài tiếng nói Nam bộ, báo Nhân dân miền Nam, Lao động, Tiền phong v.v…
Những người làm báo cách mạng trong kháng chiến chống Pháp đã chia sẻ khó khăn, gian khổ, hy sinh cùng nhân dân, quân đội, đã không chỉ duy trì phát triển, đưa nguồn thông tin, tiếng nói của cách mạng, của kháng chiến đến với đồng bào chiến sỹ trong nước và bè bạn quốc tế mà còn gùi vác, vận chuyển cả chục tấn máy in, máy phát trên vai, trực tiếp cầm súng chống càn như những người chiến sỹ. Bằng trí tuệ, tài năng, lòng yêu nước và cả máu, mồ hôi, những người làm báo kháng chiến đã hoàn thành trách nhiệm của mình, đóng góp xứng đáng vào chiến thắng chung của cả dân tộc - đánh bại thực dân xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ, làm nên một Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
4. Báo chí cách mạng thời kỳ 1955 – 1975 đã có cơ hội thuận lợi hơn để phát triển nhưng cũng phải đối mặt với những khó khăn, thử thách vô cùng khắc nghiệt. Miền Bắc giải phóng bước vào thời kỳ xây dựng CNXH nhưng chưa hết một kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã phải đối mặt với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ với mức độ ác liệt và dã man chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh. Một nửa Tổ quốc – miền Nam nằm dưới sự đô hộ của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng bảo vệ CNXH ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc xâm lược, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Ngoài một thời gian ngắn miền Bắc có hoà bình sau hiệp định Giơ-ne-vơ, còn lại trên thực tế suốt cả thời kỳ này cả nước đều có chiến tranh.
Trong thời kỳ này, trong nước có hai bộ phận báo chí cùng hướng tới mục tiêu đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Đó là bộ phận báo chí cách mạng ở miền Bắc được phát triển trong điều kiện của chế độ dân chủ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và bộ phận báo chí cách mạng ở miền Nam, phát triển trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn của chiến tranh và sự khủng bố, đàn áp của đội quân xâm lược Mỹ cùng chế độ Nguỵ quyền Sài Gòn. Riêng miền Bắc, vào thời điểm trước thềm Đại hội lần thứ 3 Hội nhà báo Việt Nam (1962), đã có 1500 nhà báo làm việc trong khoảng 120 cơ quan báo chí các loại. Báo chí thời kỳ này đã thực sự trở thành động lực góp phần to lớn trong việc tạo dựng và tổ chức những phong trào thi đua, những cuộc vận động rầm rộ trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính trị như: Sóng Duyên Hải, Gió Đại Phong, Cờ ba nhất, Thanh niên ba sẵn sàng, Phụ nữ ba đảm đang, Thi đua hai tốt, HTX 5 tấn v.v Những tấm gương điển hình trong lao động, chiến đấu được báo chí tuyên truyền, khái quát thành những biểu tượng có sức động viên, cổ vũ mạnh mẽ.
Báo chí cách mạng ở miền Nam – như “Báo chí tiền phương” đã bám sát thực tế chiến đấu, có mặt ngay tại các chiến hào, tại các mặt trận ác liệt nhất, phản ánh sinh động, kịp thời cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào, chiến sỹ ta. Các nhà báo tiền phương thực sự là những chiến sỹ ra trận, vừa cầm súng, vừa cầm bút, cầm máy ảnh, máy quay phim, đóng góp xứng đáng vào chiến thắng chung của dân tộc trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Cùng với báo chí cách mạng hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, Mặt trận, lực lượng báo chí của những người yêu nước ở các đô thị miền Nam cũng đã góp tiếng nói đáng kể trong việc động viên lòng yêu nước, tự hào dân tộc, giống nòi, ủng hộ và cổ vũ cho những cuộc đấu tranh yêu nước hợp pháp của các tầng lớp nhân dân.
5. Báo chí Việt Nam từ 1975 đến nay trở thành nền báo chí duy nhất của nước Việt Nam dân chủ, tự do, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước. Sau năm 1975 – Tổ quốc thống nhất, non sông thu về một mối, báo chí cách mạng Việt Nam cũng được hưởng niềm vui tự do, thống nhất, có điều kiện phát triển toàn diện cũng như phân bố rộng khắp trong các vùng của cả nước. Cùng cả dân tộc vượt qua những khó khăn thử thách của cuộc Chiến tranh biên giới Tây Nam, Chiến tranh biên giới phía Bắc và sự chống phá quyết liệt của kẻ thù, báo chí lại có mặt ở những điểm nóng nhất của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, trở thành bà đỡ cho những cuộc cách mạng thực sự trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Sự ra đời của của cơ chế khoán 100 năm 1981 và khoán 10 năm 1987, sự đổi mới cơ chế quản lý trong các cơ sở sản xuất công nghiệp, dịch vụ cũng như quá trình chuẩn bị cho sự ra đời của chính sách đổi mới của Đảng không thể tách rời vai trò và đóng góp vô cùng quan trọng của báo chí trong việc thông tin, phản ánh thực trạng và các sáng kiến, phát hiện các vấn đề, các nhân tố mới tích cực, những đốm sáng trong thực tiễn lao động sản xuất của nhân dân. Đến lượt nó, chính sách đổi mới của Đảng đã tạo ra điều kiện, thời cơ cho sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế – xã hội, đồng thời mang lại cơ hội lớn cho báo chí. Chỉ trong khoảng 20 năm đổi mới, nền báo chí đất nước đã lớn lên cả chục lần, đã có những bước phát triển chưa từng thấy về kỹ thuật công nghệ, về quy mô ảnh hưởng cũng như trình độ tác nghiệp. ở một số bình diện cụ thể, báo chí Việt Nam đã bắt kịp trình độ phát triển hiện đại, hội nhập với các đồng nghiệp khu vực và quốc tế.
Trên phạm vi cả nước, chúng ta đã có gần 14.000 nhà báo chuyên nghiệp cùng hàng chục nghìn cán bộ kỹ thuật, dịch vụ làm việc trong các loại hình báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử, thông tấn xã với trên 600 tên báo, tạp chí, gần 1.000 bản tin, phụ trương các loại, hệ thống đài phát thanh, truyền hình quốc gia và 64 tỉnh, thành phố, hàng trăm tờ báo mạng điện tử với gần 7% dân số sử dụng internet… Nền báo chí ngày càng giữ vai trò to lớn, không thể thiếu trong đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội của đất nước. Báo chí không chỉ là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, tuyên truyền, giải thích vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách, mà còn là trường học rộng lớn nâng cao dân trí, mở mang quan hệ quốc tế, định hướng chính trị tư tưởng cho nhân dân trước các sự kiện, vấn đề mới mẻ trong nước cũng như quốc tế. Trong mặt trận chống tiêu cực, báo chí như những người chiến sỹ tiên phong, dũng cảm phát hiện vạch trần nhiều vụ việc, góp phần ngăn chặn thiệt hại cho nhà nước, nhân dân, gióng lên những tiếng chuông cảnh tỉnh, giáo dục đối với xã hội.
Tuy nhiên, báo chí của chúng ta hiện nay vẫn còn bộc lộ không ít những hạn chế. Đó là xu hướng chạy theo những mục đích thương mại hoá, không thực hiện nghiêm túc tôn chỉ, mục đích, còn có hiện tượng đưa tin thiếu chính xác hay lợi dụng hoạt động báo chí để thực hiện những mục đích cá nhân, đưa tin thiếu cảnh giác gây tác hại đến lợi ích của đất nước hay các đơn vị kinh tế v.v… Còn có những sản phẩm báo chí có chất lượng thấp, chạy theo thị hiếu tầm thường, không yên tâm thậm chí ảnh hưởng không tốt đến môi trường giáo dục thanh – thiếu niên.
Mỗi thời kỳ phát triển của báo chí cách mạng Việt Nam trong 80 năm qua không chỉ chịu sự chi phối có tính phụ thuộc vào đặc điểm tình hình, vào yêu cầu của việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của cách mạng, mà còn là tấm gương phản chiếu trung thực, khách quan, còn trở thành một lực lượng đáng kể, một động lực phát triển quan trọng của từng sự kiện, biến cố cũng như toàn bộ tiến trình lịch sử của đất nước. Vì thế có thể nói, việc phân kỳ lịch sử báo chí cách mạng theo các giai đoạn của tiến trình lịch sử dân tộc là phương pháp phổ biến, hợp lý và dễ chấp nhận. Nó cho phép nhìn nhận, đánh giá khách quan, đúng đắn diện mạo, đặc điểm cũng như vai trò của báo chí đối với thực tiễn lịch sử./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 5 (tháng 9+10)/2005
Bài liên quan
- Ảnh hưởng của tính minh bạch và cá nhân hóa trong nền tảng VieON đến sự hài lòng của người dùng
- Thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long trên truyền hình Việt Nam hiện nay
- Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
- Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
- Nâng cao năng lực tư duy phản biện và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ báo chí - truyền thông trong bối cảnh thông tin hiện nay
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
-
5
Thực trạng chất lượng truyền thông bằng hình ảnh trên chuyên trang media của báo Lao Động điện tử
-
6
Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Ảnh hưởng của tính minh bạch và cá nhân hóa trong nền tảng VieON đến sự hài lòng của người dùng
Nghiên cứu này kiểm định mô hình mối quan hệ giữa nhận thức về đề xuất nội dung, cảm nhận kiểm soát, mức độ hài lòng và ý định tiếp tục sử dụng, với trường hợp điển hình là VieON. Khảo sát trực tuyến được thực hiện với 224 người dùng, sử dụng các thang đo đã kiểm định qua Cronbach’s Alpha, EFA, phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính, đồng thời kiểm soát các biến giới tính, độ tuổi và tần suất sử dụng. Kết quả cho thấy độ phù hợp và minh bạch (FT) là yếu tố quyết định cả sự hài lòng và ý định sử dụng, trong khi tính hữu ích của gợi ý (RU) chỉ có tác động bổ sung và không còn ý nghĩa khi dự báo sự hài lòng. Mức độ hài lòng (SAT) không giữ vai trò trung gian quan trọng, do ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ từ FT và RU. Các đặc điểm nhân khẩu học cũng tạo ra khác biệt đáng kể. Nghiên cứu khẳng định minh bạch và cá nhân hóa trong hệ thống gợi ý là đòn bẩy chiến lược giúp các nền tảng OTT củng cố niềm tin và lòng trung thành của người dùng.
Ảnh hưởng của tính minh bạch và cá nhân hóa trong nền tảng VieON đến sự hài lòng của người dùng
Ảnh hưởng của tính minh bạch và cá nhân hóa trong nền tảng VieON đến sự hài lòng của người dùng
Nghiên cứu này kiểm định mô hình mối quan hệ giữa nhận thức về đề xuất nội dung, cảm nhận kiểm soát, mức độ hài lòng và ý định tiếp tục sử dụng, với trường hợp điển hình là VieON. Khảo sát trực tuyến được thực hiện với 224 người dùng, sử dụng các thang đo đã kiểm định qua Cronbach’s Alpha, EFA, phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính, đồng thời kiểm soát các biến giới tính, độ tuổi và tần suất sử dụng. Kết quả cho thấy độ phù hợp và minh bạch (FT) là yếu tố quyết định cả sự hài lòng và ý định sử dụng, trong khi tính hữu ích của gợi ý (RU) chỉ có tác động bổ sung và không còn ý nghĩa khi dự báo sự hài lòng. Mức độ hài lòng (SAT) không giữ vai trò trung gian quan trọng, do ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ từ FT và RU. Các đặc điểm nhân khẩu học cũng tạo ra khác biệt đáng kể. Nghiên cứu khẳng định minh bạch và cá nhân hóa trong hệ thống gợi ý là đòn bẩy chiến lược giúp các nền tảng OTT củng cố niềm tin và lòng trung thành của người dùng.
Thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long trên truyền hình Việt Nam hiện nay
Thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long trên truyền hình Việt Nam hiện nay
Trước thực trạng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang chịu tác động nặng nề từ biến đổi khí hậu (BĐKH), Nghị quyết 120/NQ-CP (2017) của Chính phủ đã đề ra phương châm “thuận thiên”, định hướng phát triển bền vững thông qua thích ứng với tự nhiên, chuyển hóa thách thức thành cơ hội. Song hành cùng quá trình này, báo chí - truyền thông, đặc biệt là truyền hình, giữ vai trò then chốt trong việc lan tỏa mô hình sản xuất bền vững, giới thiệu sáng kiến thành công và nâng cao nhận thức cộng đồng. Tuy vậy, truyền hình vẫn đối mặt với thách thức về thời lượng, kinh phí và xu hướng công chúng chuyển sang nền tảng số, đòi hỏi sự đổi mới trong cách thức truyền tải thông tin để tiếp tục đồng hành cùng người dân ĐBSCL trong hành trình thích ứng với BĐKH.
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
Kỷ nguyên mới đặt ra những thách thức mới cho báo chí – truyền thông Việt Nam. Đã có một sự thay đổi rõ nét về khái niệm, mô hình tổ chức, nội dung và mối quan hệ với công chúng dưới tác động của công nghệ số. Trong quá trình đó, vai trò định hướng xuyên suốt của Đảng trong phát triển báo chí cách mạng, nhất là trong giai đoạn 2006–2025 là đặc biệt sâu sắc. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất các yêu cầu cấp thiết và ba nguyên tắc cốt lõi nhằm phát triển nền báo chí – truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới.
Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
Báo chí đa nền tảng (Multi platform journalism) đã trở thành xu hướng tất yếu trên thế giới và tại Việt Nam những năm gần đây. Tại Việt Nam, sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu 70% cơ quan báo chí đưa nội dung lên các nền tảng số vào năm 2025 và 100% vào năm 2030, báo chí đa nền tảng càng được các tòa soạn đầu tư phát triển, tập trung vào ba nền tảng chính: nền tảng xã hội (social), nền tảng di động (mobile), nền tảng web. Bài viết sẽ đi sâu vào nghiên cứu về sự phát triển của xu hướng báo chí đa nền tảng ở Việt Nam hiện nay, những vấn đề đặt ra ở góc độ nguồn nhân lực, từ đó, đề xuất một số giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực báo chí truyền thông đáp ứng nhu cầu phát triển báo chí đa nền tảng tại Việt Nam.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận