Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác hòa giải ở cơ sở
1. Thực trạng tham gia công tác hòa giải ở cơ sở của Mặt trận Tổ quốc
Hòa giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở được thể hiện thông qua các hoạt động tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là trong thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở.
a) Xây dựng văn bản hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến giáo dục Luật hòa giải cơ sở
Ngày 18.11.2014, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chính phủ đã ký kết Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở. Theo đó, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các địa phương đã ký kết chương trình phối hợp về thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở. Công tác phổ biến, quán triệt các văn bản pháp luật nói chung và pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên phương tiện thông tin đại chúng, qua các hình thức khác đã được thực hiện có hiệu quả. Tuy nhiên, thực tế việc thực hiện công tác này ở một số cơ sở còn dàn trải, chưa thường xuyên, còn chậm đổi mới về nội dung và hình thức. Ở một số tỉnh miền núi, đông đồng bào dân tộc thiểu số, các cộng đồng dân cư có đặc trưng văn hóa, phong tục, tập quán khác nhau, việc biết tiếng nói, am hiểu văn hóa, phong tục của các cộng đồng dân tộc để tuyên truyền, vận động đồng bào thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong công tác hòa giải là rào cản lớn trong thực hiện hòa giải của đội ngũ hòa giải viên.
b) Tham gia xây dựng tổ chức bộ máy hòa giải ở cơ sở
Thời gian qua, Mặt trận Tổ quốc tích cực phối hợp, tham gia tuyển chọn, bầu hòa giải viên và đã thu hút được nhiều thành phần, lực lượng tham gia. Số lượng, chất lượng của đội ngũ hòa giải viên từng bước được bảo đảm, hầu hết hòa giải viên đều nêu cao tinh thần tự nguyện, nhiệt tình, trách nhiệm. Nhiều hòa giải viên vững về chuyên môn, nghiệp vụ, thành thạo về kỹ năng hòa giải ở cơ sở. Đến tháng 4.2019, cả nước có 106.583 tổ hòa giải với 660.089 hòa giải viên, trong đó, 128.091 cán bộ mặt trận tham gia làm hòa giải viên, số hòa giải viên còn lại là cán bộ làm công tác trong các tổ chức Phụ nữ, Cựu Chiến binh, Người cao tuổi, Đoàn thanh niên hoặc già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo, người có uy tín, nguyên cán bộ làm công tác pháp luật nghỉ hưu tại địa phương(1)...
Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động ban công tác mặt trận ở nhiều cơ sở còn chưa chủ động kiến nghị Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã trong củng cố, kiện toàn tổ hòa giải khi có sự thay đổi. Chất lượng đội ngũ hòa giải viên cơ sở chưa cao, số lượng hòa giải viên có chuyên môn Luật còn thiếu, chỉ có 22.746 người, chiếm tỷ lệ rất nhỏ, khoảng 3,5%. Số lượng hòa giải viên là nữ còn ít. Năm 2008, cả nước có 651.788 hòa giải viên, trong đó chỉ có khoảng 28,5% hòa giải viên là nữ. Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho hòa giải viên chưa được tổ chức định kỳ thường xuyên. Số lượng hòa giải viên được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ hằng năm còn hạn chế. Trong năm 2018, cả nước chỉ có 237.042 hòa giải viên được bồi dưỡng, chiếm 36,4% tổng số hòa giải viên, còn 73,6% số hòa giải viên chưa được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ(2).
c) Vận động nhân dân xây dựng nội dung thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trong hương ước, quy ước
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp đã chủ động phối hợp với ngành tư pháp cùng cấp tham mưu cho chính quyền địa phương đưa nội dung thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở vào xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước, trong đó đề ra các giải pháp thực thi hiệu quả, đồng thời kịp thời phát hiện và giải quyết nhanh các mâu thuẫn ngay từ cơ sở, giữ gìn đoàn kết trong cộng đồng dân cư, góp phần đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
d) Giám sát việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở
Định kỳ hằng năm, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp chủ động xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở hoặc lồng ghép trong kiểm tra công tác thực hiện dân chủ ở cơ sở. Sau kiểm tra, giám sát, Mặt trận có những đề xuất, kiến nghị đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, thực hiện tốt hơn công tác hòa giải ở cơ sở. Tuy nhiên, ở một số địa phương, việc xây dựng kế hoạch giám sát thực hiện pháp luật về hòa giải chưa được triển khai. Tình trạng cung cấp thông tin về các vấn đề có liên quan đến thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở còn chậm, chưa đầy đủ diễn ra phổ biến; hoạt động đối thoại với đối tượng được giám sát chưa được tổ chức. Nội dung giám sát việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở chưa được đưa vào các chương trình giám sát. Mặt trận Tổ quốc các cấp chưa tích cực, chủ động trong việc cử người tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở.
e) Phối hợp, kiểm tra, sơ kết, tổng kết và khen thưởng trong thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở
Công tác phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên với cơ quan tư pháp trong triển khai thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở thời gian qua đạt nhiều kết quả tích cực, đặc biệt trong củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động của tổ hòa giải; trong tổ chức hội nghị tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ cho đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở. Trong 5 năm (2014-2019), các địa phương tiếp nhận 733.159 vụ việc, trong đó hòa giải thành công 599.983 vụ việc, đạt tỷ lệ 81,8 %(3).
Tuy nhiên, ở một số địa phương, việc lồng ghép hoạt động hòa giải ở cơ sở trong thực hiện các phong trào, cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động chưa đi vào chiều sâu, hiệu quả chưa cao, biểu hiện rõ nhất trong việc chưa vận dụng phù hợp các quy định, hương ước, quy ước trong công tác hòa giải. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc ở một số địa phương chưa quan tâm, khuyến khích hòa giải viên tham khảo, vận dụng hương ước, quy ước để hòa giải các mâu thuẫn, tranh chấp.
Hoạt động phối hợp giữa Trưởng ban công tác Mặt trận với Trưởng thôn hoặc Tổ trưởng tổ dân phố, người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội của thôn, tổ dân phố trong xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước về hòa giải chưa chặt chẽ, nhịp nhàng. Ở nhiều địa phương, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc chưa quan tâm rà soát, phát hiện, đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế hương ước, quy ước hoặc kiến nghị xử lý hương ước, quy ước vi phạm; chưa chủ động trong tuyên truyền, vận động nhân dân xóa bỏ, không áp dụng phong tục, tập quán lạc hậu, trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Công tác sơ kết, tổng kết, khen thưởng các cá nhân, tập thể điển hình có thành tích trong công tác hòa giải chưa được tổ chức thường xuyên.
2. Giải pháp phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong tham gia công tác hòa giải ở cơ sở
Một là, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên, hội viên và nhân dân về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác hòa giải ở cơ sở.
Tiếp tục thực hiện tốt công tác chính trị tư tưởng, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác hòa giải ở cơ sở trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, nâng cao nhận thức trong cả hệ thống chính trị; tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, hội viên về vai trò, vị trí, ý nghĩa quan trọng của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác hòa giải ở cơ sở.
Phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, vai trò quản lý của Nhà nước trong việc xây dựng đội ngũ tập huấn viên cấp tỉnh, cấp huyện; hòa giải viên ở cơ sở có đủ trình độ, kỹ năng và nghiệp vụ hòa giải, đáp ứng yêu cầu. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong khuyến khích, động viên các cơ quan nhà nước, tổ chức đoàn thể, cộng đồng dân cư tham gia vào công tác hòa giải ở cơ sở, huy động nguồn lực xã hội hóa công tác hòa giải ở cơ sở. Gắn hoạt động hòa giải với các phong trào: “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”... Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ của Mặt trận với chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội để kịp thời nắm bắt các vụ việc có thể phát sinh, từ đó có những phản ánh, kiến nghị đến cấp ủy, các cơ quan chức năng kịp thời giải quyết đồng thời với thực hiện hòa giải ở cơ sở.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện quy chế phối hợp công tác giữa cấp ủy đảng, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc theo hướng phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc trong thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở.
Nâng cao tính chủ động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch, kiểm tra, chỉ đạo, kịp thời rút kinh nghiệm, chấn chỉnh những thiếu sót trong hoạt động hòa giải ở cơ sở. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tiếp tục củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của các tổ hòa giải; tập trung giám sát, phát hiện, kiến nghị; thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường tiếp xúc với nhân dân, thường xuyên làm tốt việc tiếp công dân để lắng nghe, tiếp thu ý kiến, kiến nghị của nhân dân làm cơ sở cho công tác hòa giải.
Trong quy chế phối hợp thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở phải thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm và uy tín của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp. Phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; tăng cường tính chủ động, tích cực của mỗi cơ quan, tổ chức trong công tác hòa giải ở cơ sở. Việc phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận với cơ quan quản lý nhà nước cần dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, bảo đảm vai trò, trách nhiệm của mỗi đơn vị.
Việc phối hợp giữa Mặt trận và các cơ quan trong công tác hòa giải cơ sở phải thường xuyên, kịp thời, đồng bộ, chặt chẽ, thống nhất, đúng quy định của pháp luật. Đặc biệt cần quy định rõ nhiệm vụ của Mặt trận trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hòa giải cơ sở; xây dựng tiêu chuẩn hòa giải viên cơ sở; giới thiệu nhân sự vào tổ hòa giải cơ sở, tham gia công tác tuyển chọn hòa giải viên cơ sở; đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tham gia công tác hòa giải cơ sở; vận động nhân dân xây dựng nội dung thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở theo hương ước, quy ước; giám sát việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở của Mặt trận.
Thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo; công tác thanh tra, kiểm tra; sơ kết, tổng kết và khen thưởng đối với công tác hòa giải ở cơ sở.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cần cử đại diện tham gia kiểm tra việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở; phối hợp chuẩn bị các điều kiện phục vụ kiểm tra và thực hiện kiểm tra theo chương trình, kế hoạch; đồng thời cần đóng góp ý kiến xây dựng báo cáo sơ kết, tổng kết việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp chủ động đề xuất với Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân cùng cấp khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc tham gia, đóng góp, hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ sở theo quy định của Luật Thi đua, khen thưởng.
Ba là, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hòa giải viên cơ sở.
Chất lượng đội ngũ hòa giải viên là yếu tố quan trọng tác động đến chất lượng công tác hòa giải ở cơ sở. Do đó cần chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này có đủ năng lực và kỹ năng tiến hành công tác hòa giải ở cơ sở. Mặt trận Tổ quốc cần xác định rõ nội dung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hòa giải viên cơ sở, trang bị cho đội ngũ hòa giải viên về các nguyên tắc, quy trình thực hiện hòa giải ở cơ sở và vận dụng sáng tạo vào thực tế những kỹ năng như: tiếp cận đối tượng để nắm bắt thông tin về vụ việc hòa giải và nhu cầu lợi ích của các bên; xem xét, xác minh vụ việc; tra cứu, tìm kiếm văn bản pháp luật, tìm kiếm giải pháp tư vấn cho các bên; chuẩn bị tổ chức, điều hành, kiểm soát buổi hòa giải; giải thích, thuyết phục, hướng dẫn các bên tự thỏa thuận dàn xếp mâu thuẫn, tranh chấp; ghi chép, lập văn bản hòa giải...
____________________________________
(1), (3) Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Luật hòa giải cơ sở, 2019.
(2) Nguồn Bộ Tư pháp.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 8.7.2021
Bài liên quan
- Đặc điểm hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội của thế hệ Z tại Việt Nam
- Xây dựng đội ngũ nữ trí thức thành phố Hải Phòng trong kỷ nguyên mới
- Truyền thông về sản phẩm OCOP trên báo mạng điện tử địa phương vùng Trung du Bắc Bộ
- Quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan hành chính nhà nước Thành phố Hà Nội trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
- Short video trong xây dựng thương hiệu YouTube của cơ quan báo chí hiện nay: Vai trò, vấn đề đặt ra và một số giải pháp
Xem nhiều
-
1
Thực hành tiết kiệm
-
2
Video Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền lần thứ XII, nhiệm kỳ 2025-2030
-
3
Ứng dụng AI trong sáng tạo tác phẩm báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay
-
4
Sự dịch chuyển của thương hiệu Việt trong ngành thực phẩm và đồ uống (F&B) Việt Nam
-
5
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vận dụng trong nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay
-
6
Tổ chức thành công đại hội các cấp của Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: đoàn kết, dân chủ, gương mẫu, trí tuệ, hiệu quả
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong quá trình sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay
Cuộc cách mạng về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy đang được Đảng và Nhà nước ta triển khai đồng bộ, quyết liệt, tạo động lực, nền tảng vững chắc, đưa đất nước ta tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc(1). Quá trình thực hiện cuộc cách mạng, bên cạnh những thuận lợi cơ bản cũng gặp một số khó khăn, thách thức, trong đó có công tác bảo vệ chính trị nội bộ, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan chức năng liên quan nắm vững và giải quyết kịp thời, thấu đáo.
Đặc điểm hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội của thế hệ Z tại Việt Nam
Đặc điểm hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội của thế hệ Z tại Việt Nam
Trong bối cảnh mạng xã hội ngày càng trở thành kênh tiếp cận thông tin phổ biến, nghiên cứu này tập trung phân tích hành vi tiêu thụ tin tức của thế hệ Z tại Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ một cuộc khảo sát do tác giả thực hiện vào tháng 8/2024, trong khuôn khổ thực hiện luận án Tiến sĩ với đề tài “Nghiên cứu hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội của thế hệ Z tại Việt Nam”. Khảo sát được tiến hành với 1.224 thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 15 đến 21. Kết quả cho thấy, 97,2% người tham gia lựa chọn mạng xã hội là nguồn tin tức chính. Trong đó, các nền tảng được sử dụng phổ biến nhất gồm Facebook, TikTok và YouTube. Các chủ đề tin tức thu hút sự quan tâm nhiều nhất là giải trí, xã hội và kinh tế. Hơn 68% người được hỏi tích cực tham gia các hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội như đọc, chia sẻ và thảo luận; khoảng 61% chủ động kiểm tra nguồn tin khi tiêu thụ. Đáng chú ý, 80% số người tham gia nhận thức được rằng mạng xã hội sử dụng thuật toán để cá nhân hóa nội dung, nhưng phần lớn (68,9%) có đánh giá tiêu cực, đặc biệt là lo ngại về quyền riêng tư và thiên lệch nội dung dẫn đến nguy cơ tạo thành "bong bóng thông tin". Nghiên cứu cũng cho thấy mức độ nhận thức và hành vi tiêu thụ tin tức có xu hướng tăng dần theo độ tuổi. Các kết quả đã gợi mở về nhu cầu giáo dục kiến thức truyền thông số cho nhóm công chúng này và đặt ra vấn đề về trách nhiệm của nền tảng trong điều chỉnh thuật toán nhằm tạo môi trường truyền thông tin tức hiệu quả và bền vững.
Xây dựng đội ngũ nữ trí thức thành phố Hải Phòng trong kỷ nguyên mới
Xây dựng đội ngũ nữ trí thức thành phố Hải Phòng trong kỷ nguyên mới
Nghiên cứu khái quát thực trạng đội ngũ nữ trí thức thành phố Hải Phòng giai đoạn 2008–2025, làm rõ những thành tựu nổi bật, đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế, trên cơ sở đó, đề xuất một hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm xây dựng đội ngũ nữ trí thức Hải Phòng trong thời kỳ chuyển đổi số, hội nhập sâu rộng và phát triển kinh tế tri thức, đóng góp thiết thực vào việc nâng cao nguồn lực con người, phát huy vai trò của phụ nữ Hải Phòng trong kỷ nguyên mới 2025–2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Truyền thông về sản phẩm OCOP trên báo mạng điện tử địa phương vùng Trung du Bắc Bộ
Truyền thông về sản phẩm OCOP trên báo mạng điện tử địa phương vùng Trung du Bắc Bộ
Trong những năm gần đây, chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn theo hướng bền vững, gắn với phát huy giá trị bản địa và nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm nông nghiệp. Trong quá trình đó, báo chí -truyền thông đặc biệt là báo mạng điện tử địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá hình ảnh, khơi dậy niềm tin người tiêu dùng, đồng thời kết nối sản phẩm OCOP với thị trường. Tại các tỉnh vùng Trung du Bắc Bộ - nơi có tiềm năng phong phú về đặc sản nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ, hệ thống báo mạng địa phương đã có nhiều nỗ lực đưa thông tin về sản phẩm OCOP đến với công chúng. Tuy nhiên, hoạt động truyền thông này vẫn còn phân tán, thiếu chiều sâu và chưa khai thác hiệu quả các thế mạnh của báo điện tử trong tích hợp đa phương tiện, tương tác hai chiều. Bài viết phân tích thực trạng truyền thông về sản phẩm OCOP trên báo mạng điện tử địa phương các tỉnh vùng Trung du Bắc Bộ, chỉ ra những mặt đạt được, những hạn chế còn tồn tại và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng truyền thông, góp phần đưa sản phẩm OCOP thực sự trở thành thương hiệu nông thôn mới.
Quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan hành chính nhà nước Thành phố Hà Nội trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan hành chính nhà nước Thành phố Hà Nội trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh truyền thông số phát triển mạnh mẽ và nhu cầu tiếp cận thông tin của người dân ngày càng cao, việc quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan hành chính nhà nước (HCNN) trở thành một nhiệm vụ cấp thiết nhằm bảo đảm tính chính xác, kịp thời và định hướng dư luận xã hội hiệu quả. Tại Thủ đô Hà Nội - trung tâm chính trị, hành chính của cả nước, hoạt động phát ngôn diễn ra với mật độ cao, liên quan đến nhiều lĩnh vực nhạy cảm và được báo chí, đặc biệt là báo mạng điện tử (BMĐT), cập nhật liên tục. Trên thực tế, các BMĐT đang giữ vai trò cầu nối quan trọng giữa cơ quan công quyền và công chúng trong truyền thông chính sách, nhưng cũng đối mặt với không ít thách thức: từ áp lực thời gian, tính xác thực của nguồn tin, đến yêu cầu về cách thể hiện thông tin thân thiện, dễ hiểu. Bài viết này tập trung phân tích thực trạng quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan HCNN thành phố Hà Nội trên BMĐT hiện nay, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế còn tồn tại, đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị thông tin trong thời đại số, nhằm hướng tới nền hành chính minh bạch, hiện đại và phục vụ.
Bình luận