Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác hòa giải ở cơ sở
1. Thực trạng tham gia công tác hòa giải ở cơ sở của Mặt trận Tổ quốc
Hòa giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở được thể hiện thông qua các hoạt động tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là trong thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở.
a) Xây dựng văn bản hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến giáo dục Luật hòa giải cơ sở
Ngày 18.11.2014, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chính phủ đã ký kết Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở. Theo đó, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các địa phương đã ký kết chương trình phối hợp về thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở. Công tác phổ biến, quán triệt các văn bản pháp luật nói chung và pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên phương tiện thông tin đại chúng, qua các hình thức khác đã được thực hiện có hiệu quả. Tuy nhiên, thực tế việc thực hiện công tác này ở một số cơ sở còn dàn trải, chưa thường xuyên, còn chậm đổi mới về nội dung và hình thức. Ở một số tỉnh miền núi, đông đồng bào dân tộc thiểu số, các cộng đồng dân cư có đặc trưng văn hóa, phong tục, tập quán khác nhau, việc biết tiếng nói, am hiểu văn hóa, phong tục của các cộng đồng dân tộc để tuyên truyền, vận động đồng bào thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong công tác hòa giải là rào cản lớn trong thực hiện hòa giải của đội ngũ hòa giải viên.
b) Tham gia xây dựng tổ chức bộ máy hòa giải ở cơ sở
Thời gian qua, Mặt trận Tổ quốc tích cực phối hợp, tham gia tuyển chọn, bầu hòa giải viên và đã thu hút được nhiều thành phần, lực lượng tham gia. Số lượng, chất lượng của đội ngũ hòa giải viên từng bước được bảo đảm, hầu hết hòa giải viên đều nêu cao tinh thần tự nguyện, nhiệt tình, trách nhiệm. Nhiều hòa giải viên vững về chuyên môn, nghiệp vụ, thành thạo về kỹ năng hòa giải ở cơ sở. Đến tháng 4.2019, cả nước có 106.583 tổ hòa giải với 660.089 hòa giải viên, trong đó, 128.091 cán bộ mặt trận tham gia làm hòa giải viên, số hòa giải viên còn lại là cán bộ làm công tác trong các tổ chức Phụ nữ, Cựu Chiến binh, Người cao tuổi, Đoàn thanh niên hoặc già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo, người có uy tín, nguyên cán bộ làm công tác pháp luật nghỉ hưu tại địa phương(1)...
Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động ban công tác mặt trận ở nhiều cơ sở còn chưa chủ động kiến nghị Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã trong củng cố, kiện toàn tổ hòa giải khi có sự thay đổi. Chất lượng đội ngũ hòa giải viên cơ sở chưa cao, số lượng hòa giải viên có chuyên môn Luật còn thiếu, chỉ có 22.746 người, chiếm tỷ lệ rất nhỏ, khoảng 3,5%. Số lượng hòa giải viên là nữ còn ít. Năm 2008, cả nước có 651.788 hòa giải viên, trong đó chỉ có khoảng 28,5% hòa giải viên là nữ. Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho hòa giải viên chưa được tổ chức định kỳ thường xuyên. Số lượng hòa giải viên được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ hằng năm còn hạn chế. Trong năm 2018, cả nước chỉ có 237.042 hòa giải viên được bồi dưỡng, chiếm 36,4% tổng số hòa giải viên, còn 73,6% số hòa giải viên chưa được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ(2).
c) Vận động nhân dân xây dựng nội dung thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trong hương ước, quy ước
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp đã chủ động phối hợp với ngành tư pháp cùng cấp tham mưu cho chính quyền địa phương đưa nội dung thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở vào xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước, trong đó đề ra các giải pháp thực thi hiệu quả, đồng thời kịp thời phát hiện và giải quyết nhanh các mâu thuẫn ngay từ cơ sở, giữ gìn đoàn kết trong cộng đồng dân cư, góp phần đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
d) Giám sát việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở
Định kỳ hằng năm, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp chủ động xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở hoặc lồng ghép trong kiểm tra công tác thực hiện dân chủ ở cơ sở. Sau kiểm tra, giám sát, Mặt trận có những đề xuất, kiến nghị đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, thực hiện tốt hơn công tác hòa giải ở cơ sở. Tuy nhiên, ở một số địa phương, việc xây dựng kế hoạch giám sát thực hiện pháp luật về hòa giải chưa được triển khai. Tình trạng cung cấp thông tin về các vấn đề có liên quan đến thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở còn chậm, chưa đầy đủ diễn ra phổ biến; hoạt động đối thoại với đối tượng được giám sát chưa được tổ chức. Nội dung giám sát việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở chưa được đưa vào các chương trình giám sát. Mặt trận Tổ quốc các cấp chưa tích cực, chủ động trong việc cử người tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở.
e) Phối hợp, kiểm tra, sơ kết, tổng kết và khen thưởng trong thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở
Công tác phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên với cơ quan tư pháp trong triển khai thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở thời gian qua đạt nhiều kết quả tích cực, đặc biệt trong củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động của tổ hòa giải; trong tổ chức hội nghị tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ cho đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở. Trong 5 năm (2014-2019), các địa phương tiếp nhận 733.159 vụ việc, trong đó hòa giải thành công 599.983 vụ việc, đạt tỷ lệ 81,8 %(3).
Tuy nhiên, ở một số địa phương, việc lồng ghép hoạt động hòa giải ở cơ sở trong thực hiện các phong trào, cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động chưa đi vào chiều sâu, hiệu quả chưa cao, biểu hiện rõ nhất trong việc chưa vận dụng phù hợp các quy định, hương ước, quy ước trong công tác hòa giải. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc ở một số địa phương chưa quan tâm, khuyến khích hòa giải viên tham khảo, vận dụng hương ước, quy ước để hòa giải các mâu thuẫn, tranh chấp.
Hoạt động phối hợp giữa Trưởng ban công tác Mặt trận với Trưởng thôn hoặc Tổ trưởng tổ dân phố, người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội của thôn, tổ dân phố trong xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước về hòa giải chưa chặt chẽ, nhịp nhàng. Ở nhiều địa phương, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc chưa quan tâm rà soát, phát hiện, đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế hương ước, quy ước hoặc kiến nghị xử lý hương ước, quy ước vi phạm; chưa chủ động trong tuyên truyền, vận động nhân dân xóa bỏ, không áp dụng phong tục, tập quán lạc hậu, trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Công tác sơ kết, tổng kết, khen thưởng các cá nhân, tập thể điển hình có thành tích trong công tác hòa giải chưa được tổ chức thường xuyên.
2. Giải pháp phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong tham gia công tác hòa giải ở cơ sở
Một là, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên, hội viên và nhân dân về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác hòa giải ở cơ sở.
Tiếp tục thực hiện tốt công tác chính trị tư tưởng, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác hòa giải ở cơ sở trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, nâng cao nhận thức trong cả hệ thống chính trị; tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, hội viên về vai trò, vị trí, ý nghĩa quan trọng của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác hòa giải ở cơ sở.
Phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, vai trò quản lý của Nhà nước trong việc xây dựng đội ngũ tập huấn viên cấp tỉnh, cấp huyện; hòa giải viên ở cơ sở có đủ trình độ, kỹ năng và nghiệp vụ hòa giải, đáp ứng yêu cầu. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong khuyến khích, động viên các cơ quan nhà nước, tổ chức đoàn thể, cộng đồng dân cư tham gia vào công tác hòa giải ở cơ sở, huy động nguồn lực xã hội hóa công tác hòa giải ở cơ sở. Gắn hoạt động hòa giải với các phong trào: “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”... Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ của Mặt trận với chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội để kịp thời nắm bắt các vụ việc có thể phát sinh, từ đó có những phản ánh, kiến nghị đến cấp ủy, các cơ quan chức năng kịp thời giải quyết đồng thời với thực hiện hòa giải ở cơ sở.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện quy chế phối hợp công tác giữa cấp ủy đảng, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc theo hướng phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc trong thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở.
Nâng cao tính chủ động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch, kiểm tra, chỉ đạo, kịp thời rút kinh nghiệm, chấn chỉnh những thiếu sót trong hoạt động hòa giải ở cơ sở. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tiếp tục củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của các tổ hòa giải; tập trung giám sát, phát hiện, kiến nghị; thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường tiếp xúc với nhân dân, thường xuyên làm tốt việc tiếp công dân để lắng nghe, tiếp thu ý kiến, kiến nghị của nhân dân làm cơ sở cho công tác hòa giải.
Trong quy chế phối hợp thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở phải thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm và uy tín của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp. Phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; tăng cường tính chủ động, tích cực của mỗi cơ quan, tổ chức trong công tác hòa giải ở cơ sở. Việc phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận với cơ quan quản lý nhà nước cần dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, bảo đảm vai trò, trách nhiệm của mỗi đơn vị.
Việc phối hợp giữa Mặt trận và các cơ quan trong công tác hòa giải cơ sở phải thường xuyên, kịp thời, đồng bộ, chặt chẽ, thống nhất, đúng quy định của pháp luật. Đặc biệt cần quy định rõ nhiệm vụ của Mặt trận trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hòa giải cơ sở; xây dựng tiêu chuẩn hòa giải viên cơ sở; giới thiệu nhân sự vào tổ hòa giải cơ sở, tham gia công tác tuyển chọn hòa giải viên cơ sở; đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tham gia công tác hòa giải cơ sở; vận động nhân dân xây dựng nội dung thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở theo hương ước, quy ước; giám sát việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở của Mặt trận.
Thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo; công tác thanh tra, kiểm tra; sơ kết, tổng kết và khen thưởng đối với công tác hòa giải ở cơ sở.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cần cử đại diện tham gia kiểm tra việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở; phối hợp chuẩn bị các điều kiện phục vụ kiểm tra và thực hiện kiểm tra theo chương trình, kế hoạch; đồng thời cần đóng góp ý kiến xây dựng báo cáo sơ kết, tổng kết việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp chủ động đề xuất với Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân cùng cấp khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc tham gia, đóng góp, hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ sở theo quy định của Luật Thi đua, khen thưởng.
Ba là, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hòa giải viên cơ sở.
Chất lượng đội ngũ hòa giải viên là yếu tố quan trọng tác động đến chất lượng công tác hòa giải ở cơ sở. Do đó cần chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này có đủ năng lực và kỹ năng tiến hành công tác hòa giải ở cơ sở. Mặt trận Tổ quốc cần xác định rõ nội dung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hòa giải viên cơ sở, trang bị cho đội ngũ hòa giải viên về các nguyên tắc, quy trình thực hiện hòa giải ở cơ sở và vận dụng sáng tạo vào thực tế những kỹ năng như: tiếp cận đối tượng để nắm bắt thông tin về vụ việc hòa giải và nhu cầu lợi ích của các bên; xem xét, xác minh vụ việc; tra cứu, tìm kiếm văn bản pháp luật, tìm kiếm giải pháp tư vấn cho các bên; chuẩn bị tổ chức, điều hành, kiểm soát buổi hòa giải; giải thích, thuyết phục, hướng dẫn các bên tự thỏa thuận dàn xếp mâu thuẫn, tranh chấp; ghi chép, lập văn bản hòa giải...
____________________________________
(1), (3) Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Luật hòa giải cơ sở, 2019.
(2) Nguồn Bộ Tư pháp.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 8.7.2021
Bài liên quan
- Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
- Quản trị thông tin chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
Tích hợp giảng dạy AI trong đào tạo báo chí, truyền thông: Tiếp cận từ đặc điểm người học
-
2
Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
-
3
Nâng cao năng lực tư duy phản biện và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ báo chí - truyền thông trong bối cảnh thông tin hiện nay
-
4
Truyền thông xây dựng văn hoá số cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay
-
5
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
-
6
Kinh nghiệm giảng dạy từ đồng nghĩa trong giờ đọc – hiểu tiếng Việt cho sinh viên nước ngoài tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
Kỷ nguyên mới đặt ra những thách thức mới cho báo chí – truyền thông Việt Nam. Đã có một sự thay đổi rõ nét về khái niệm, mô hình tổ chức, nội dung và mối quan hệ với công chúng dưới tác động của công nghệ số. Trong quá trình đó, vai trò định hướng xuyên suốt của Đảng trong phát triển báo chí cách mạng, nhất là trong giai đoạn 2006–2025 là đặc biệt sâu sắc. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất các yêu cầu cấp thiết và ba nguyên tắc cốt lõi nhằm phát triển nền báo chí – truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới.
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Công cuộc tinh gọn bộ máy nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước hiện đại, hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả, phục vụ nhân dân. Trong tiến trình đó, công tác cán bộ đóng vai trò trung tâm, bởi cán bộ chính là người tổ chức và thực thi cải cách. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự tương xứng với yêu cầu đổi mới bộ máy nhà nước. Bài viết tiếp cận vấn đề từ nền tảng lý luận Mác, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng để phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn trong đổi mới công tác cán bộ, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống chính trị trong bối cảnh mới.
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh chuyển đổi số y tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn quốc, một số bệnh viện tuyến trung ương đã bước đầu ứng dụng truyền thông số hiệu quả trong tư vấn tâm lý – xã hội, kết nối cộng đồng và vận động nguồn lực, tuy nhiên, phần lớn bệnh viện tuyến tỉnh, huyện chưa có điều kiện triển khai đầy đủ. Bài viết đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tích hợp truyền thông số vào hoạt động công tác xã hội (CTXH) tại bệnh viện, góp phần định hướng phát triển CTXH bệnh viện theo hướng chuyên nghiệp, công bằng và thích ứng với bối cảnh số hóa y tế đến năm 2030.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Theo thống kê trong giai đoạn từ 2013 – 2023 cho thấy độ tuổi kết hôn trung bình của người dân đang có xu hướng tăng(1). Vì vậy, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi này tại Việt Nam. Bài nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi trong độ tuổi kết hôn của người dân Việt Nam, đồng thời phân tích rõ ảnh hưởng của những nhân tố như trình độ học vấn, nền tảng gia đình, địa lý, chi phí sinh hoạt, thu nhập, nghề nghiệp và truyền thông tới việc trì hoãn kết hôn, thông qua dữ liệu từ cuộc khảo sát gồm 736 người trong độ tuổi từ 18 – 35, trải rộng khắp các vùng miền của Việt Nam. Qua đó, nhóm tác giả nêu lên một số đánh giá về tác động của hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ tới sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sau cùng, nhóm tác giả đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề trì hoãn kết hôn của người trẻ Việt Nam hiện nay.
Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Trong bức tranh truyền thông hiện đại, hình ảnh người phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS) Việt Nam đang dần được tái hiện với nhiều sắc thái mới, giàu tính biểu cảm và phản ánh đa dạng vai trò của họ trong đời sống đương đại. Tại Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN), việc quản lý, thể hiện và lan tỏa hình ảnh phụ nữ DTTS trên các sản phẩm báo ảnh ngày càng được chú trọng cả về chiều sâu nội dung lẫn chất lượng hình thức. Không chỉ đơn thuần là những khuôn hình đặc tả trang phục truyền thống hay lao động thường nhật, các sản phẩm báo ảnh tại đây còn hướng tới việc khắc họa chân dung người phụ nữ dân tộc với vai trò chủ thể phát triển – là cán bộ, trí thức, doanh nhân, nghệ nhân... Bài viết phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm quản lý tốt hình ảnh phụ nữ DTTS trên các sản phẩm báo ảnh của TTXVN hiện nay.
Bình luận