Phát triển toàn diện năng lực, phẩm chất người học gắn với đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển đất nước và con người
Vai trò của giáo dục có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nguồn nhân lực, cũng như sự phát triển bền vững của một quốc gia. Ở Việt Nam, giáo dục có vai trò quan trọng đối với việc phát triển con người toàn diện, trở thành động lực cơ bản để xây dựng và phát triển xã hội, cũng như quyết định đến sự phát triển của đất nước. Những ngày đầu tiên bắt tay vào xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định một trong những nhiệm vụ cấp bách là chống giặc dốt. Người khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”(2).
Do vậy, công việc cấp bách phải thực hiện là nâng cao dân trí, bởi không một quốc gia nào có thể tiến hành xây dựng một chế độ xã hội mới và bảo vệ Tổ quốc thành công trong điều kiện văn hóa, dân trí, đạo đức, tinh thần xã hội còn thấp. Trong quá trình đó, “giáo dục đã có nhiều thành tựu trong việc nâng cao hiểu biết và phẩm hạnh của nhân dân và tạo ra những thế hệ trí thức tài năng, có đóng góp lớn cho sự phát triển của đất nước”(3).
Giáo dục được coi là chiến lược cơ bản, lâu dài - một quốc sách hàng đầu. Người khẳng định: Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Chúng ta phải tạo ra những công dân tốt, cán bộ tốt cho nước nhà... Đó là một trách nhiệm nặng nề nhưng rất vẻ vang. Người chỉ rõ: Bây giờ xây dựng kinh tế. Không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu, vì thế nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang.
Đồng thời, Người nhấn mạnh tác động, ảnh hưởng quan trọng của giáo dục đối với các thế hệ tương lai, con đường phát triển của quốc gia, dân tộc: Làm tốt thì thế hệ sau này có ảnh hưởng tốt. Làm không tốt sẽ có ảnh hưởng không tốt đến thế hệ sau. Để bồi đắp nguyên khí quốc gia, chỉ có một cách duy nhất là tập trung vào phát triển giáo dục. Bởi lẽ, “giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”(4) và “nền giáo dục mới gắn tài với đức, gắn sự sáng tạo của cá nhân với lợi ích của cộng đồng, tạo ra nền văn hóa bao dung, quan tâm đến mọi người và vì mọi người”(5).
Đảng ta xác định 3 mục tiêu mà sự nghiệp giáo dục, đào tạo phải đạt, đó là nâng cao dân trí, phát triển nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; trong đó phát triển nhân lực là mục tiêu có ý nghĩa rất quan trọng. Đối tượng hướng đến của giáo dục là con người và mục tiêu của nó là trang bị những năng lực cần thiết cho con người tham gia vào đời sống xã hội. Giáo dục, đào tạo góp phần nâng cao trình độ văn hóa, trình độ học vấn, trình độ khoa học - kỹ thuật, tổ chức quản lý và năng lực hoạt động thực tiễn của con người, đồng thời tác động đến thể lực, trí lực, đức dục của con người.
Sau gần 40 năm đổi mới, nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản, toàn diện, đã có những chuyển biến tích cực. Chất lượng từng bước được nâng lên, hệ thống giáo dục quốc dân tiếp tục hoàn thiện, mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo tiếp tục mở rộng ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học. Vai trò, vị trí các cơ sở giáo dục, nhất là giáo dục đại học, trong hệ thống giáo dục dần được khẳng định; tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm được đề cao; chất lượng đào tạo từng bước cải thiện, hệ thống chương trình được đổi mới, chú trọng phát triển các phẩm chất, năng lực cho học sinh; phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực cũng được chú trọng. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên được đẩy mạnh... Hợp tác quốc tế tăng cường theo hướng chủ động, tích cực đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành giáo dục, cũng như yêu cầu phát triển bền vững, hội nhập quốc tế của đất nước.
Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực, phẩm chất người học.
Trong Thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tháng 9/1945), Bác Hồ đã khẳng định: “Từ giờ phút này giở đi, các em bắt đầu nhận được một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam… Một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”(6). Có thể nói, ngoài việc trang bị cho người học những tri thức phổ thông, giáo dục đạo đức, giáo dục còn có vai trò phát hiện, chăm lo, vun trồng và phát triển những năng lực riêng có của mỗi cá nhân người học.
Tại Đại hội lần thứ XII, Đảng ta nhận định: Giáo dục và đào tạo chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, thành động lực phát triển, do đó, cần “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”(7). Mục tiêu là giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân.
Như vậy, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển đất nước. Tiếp nối tinh thần đó, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh việc chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực, phẩm chất người học. Có thể nói, đây là bước chuyển liên quan tới những vấn đề cốt lõi của giáo dục, đó là sứ mệnh, mục tiêu, chương trình, phương pháp, phương thức, cách đánh giá giáo dục và đào tạo.
Hiện nay, thế giới xuất hiện hàng loạt vấn đề có tính chất toàn cầu, từ biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, đến những biến động địa - chính trị..., đòi hỏi phải đào tạo thế hệ tương lai không chỉ có tri thức mà còn phải có năng lực, kỹ năng xử lý hàng loạt vấn đề phức tạp liên tục phát sinh, đặc biệt là khả năng thích ứng cao trước mọi biến động của thời cuộc với trách nhiệm của những công dân toàn cầu. Trong nền kinh tế tri thức, lực lượng sản xuất từ dựa vào tài nguyên thiên nhiên, lao động giá rẻ đang chuyển mạnh sang dựa chủ yếu vào khả năng và năng lực sáng tạo của con người, khoa học - công nghệ. Do vậy, cần xây dựng nền giáo dục Việt Nam hiện đại, hội nhập, nhân văn, có khả năng phát huy cao nhất mọi năng lực, phẩm chất vốn có của con người, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trong khu vực và thế giới.
Đối với việc chuyển quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, mục tiêu giáo dục được chú trọng cả yêu cầu đối với xã hội và cá nhân. Mục tiêu hàng đầu là đạt được những chuẩn mực cao nhất về kết quả học tập thông qua các chương trình giáo dục, giúp người học phát huy được đầy đủ tiềm năng cá nhân, đồng thời có được những giá trị cần thiết để trở thành các thành viên tích cực của xã hội. Yêu cầu phát triển nhân cách người học phải được đề cao, nên giáo dục phải chuyển từ mô hình tiếp cận nội dung sang mô hình tiếp cận năng lực.
Mô hình tiếp cận năng lực là “mô hình giáo dục trong đó việc dạy, học, đánh giá và giải trình dựa trên những kết quả học tập đầu ra của chương trình giáo dục, tức là dựa trên những thứ mà người học biết, hiểu và có thể thực hiện sau khi kết thúc một giai đoạn học tập hoặc một đơn vị học tập. Những thay đổi trên, cùng với việc nhận thức lại sứ mệnh và mục tiêu giáo dục đã chuyển người học vào vị trí trung tâm của quá trình dạy và học”(8). Với môi trường giáo dục thay đổi nhanh chóng, kiến thức phải được cập nhật thường xuyên, người học cần trở thành công dân học tập gắn với xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời.
Để thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới, nhiều quốc gia đã xem xét lại hệ thống giáo dục, tiến hành điều chỉnh, cải cách giáo dục. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư dẫn tới xu hướng phân cực mạnh mẽ của thị trường lao động. Việc làm sẽ tăng đối với loại công việc trí tuệ, sáng tạo với mức lương cao và loại công việc chân tay với thu nhập thấp, nhưng sẽ giảm đáng kể đối với các loại công việc đều đặn, lặp đi lặp lại với thu nhập trung bình. Những nghề nghiệp có ít nguy cơ bị tự động hóa sẽ là những công việc đòi hỏi các kỹ năng xã hội và sáng tạo, đặc biệt là kỹ năng ra quyết định trong bối cảnh nhiều biến động.
Trong khi đó, Việt Nam là quốc gia có lực lượng lao động lớn nhưng chất lượng của lao động chưa cao; khả năng thích ứng với sự thay đổi của người lao động còn hạn chế; khi có những thay đổi của hoàn cảnh, thì khả năng ứng phó của người lao động còn thiếu linh hoạt. Mặc dù trong những năm qua, nền giáo dục Việt Nam nói chung, các cơ sở đào tạo, giáo dục nghề nghiệp ở nước ta nói riêng đã đào tạo được đội ngũ công nhân, kỹ sư, cử nhân khoa học giỏi, những thạc sĩ, tiến sĩ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, giáo dục và đào tạo, văn hóa, xã hội, phần nào đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực của xã hội.
Tuy nhiên, nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, lực lượng quản lý, cơ chế, chính sách cũng như môi trường, điều kiện, trang thiết bị phục vụ nghề nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đứng trước những thách thức lớn, nhất là để từng bước hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Do đó, Đại hội XIII của Đảng đề ra yêu cầu, chuyển từ “học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến, qua internet, truyền hình, các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế”(9).
Giáo dục có vai trò làm cho tiềm năng trở thành các năng lực và đó là một quá trình công phu, lâu dài. Để làm được việc đó, mục tiêu giáo dục phải hướng tới sự toàn diện, bao gồm các yếu tố: Tâm lực (chí hướng), trí lực (trí tuệ), thể lực (thể chất) - tức là tiềm năng phải trở thành các loại năng lực: Năng lực về tâm lý, năng lực về trí tuệ, năng lực về thể chất.
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) nhấn mạnh về Bốn cột trụ của giáo dục thế kỷ XXI (Học để biết, học để làm, học để tồn tại và học để chung sống), trong đó nhấn mạnh một nguyên tắc cơ bản: Giáo dục phải đóng góp vào sự phát triển toàn diện của mỗi cá thể: Tâm lý và thể xác, trí tuệ và tình cảm, thái độ đạo đức, tinh thần trách nhiệm cá nhân và các giá trị tinh thần. Mục tiêu của giáo dục là dạy làm người, nghĩa là rèn luyện đạo đức và nhân cách con người, đồng thời cung cấp kiến thức, kỹ năng để con người xây dựng cuộc sống hạnh phúc, văn minh. Điều đó đòi hỏi giáo dục của các quốc gia đều cần đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp, cách thức giáo dục một cách phù hợp nhất.
Trên tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” và triển khai Nghị quyết số 88/2014/QH13, của Quốc hội, về “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông”, qua nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, có thể nhận thấy, sự thay đổi nổi bật trong đổi mới giáo dục hiện nay là trong chương trình, sách giáo khoa mới đã chuyển từ coi trọng truyền thụ kiến thức sang giáo dục nhân cách công dân, phát huy tiềm năng của người học.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chương trình giáo dục phổ thông mới theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, với 5 phẩm chất chủ yếu và 10 năng lực cốt lõi cần phát triển. Chương trình giáo dục phổ thông mới được được xây dựng theo hướng tiếp cận phát triển phẩm chất, năng lực học sinh nhằm khắc phục những hạn chế của chương trình tiếp cận nội dung như hiện hành. Nội dung giáo dục thiết thực hơn, giảm tính hàn lâm, tăng tính thực tế; học sinh không phải ghi nhớ máy móc, khắc phục tình trạng “thầy đọc”, “trò chép”; phát huy sự chủ động, sáng tạo của học sinh...
Trong việc xây dựng chương trình, sách giáo khoa, yêu cầu đặt ra là nội dung dạy học thật tinh giản, cơ bản, hiện đại và thiết thực. Quá trình dạy học đã chú trọng đồng thời cả hoạt động dạy học và hoạt động trải nghiệm để hình thành, phát triển ở người học năng lực tư duy độc lập, vận dụng tổng hợp và linh hoạt tri thức để giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong học tập và cuộc sống. Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh bảo đảm sự thống nhất, tương tác, trong đó, giáo viên giữ vai trò chỉ đạo, hướng dẫn; học sinh không chỉ là đối tượng của hoạt động dạy mà cũng chính là chủ thể của hoạt động học.
Những năm qua, ở cấp tiểu học và trung học cơ sở, việc triển khai mô hình trường học mới góp phần tích cực tạo tiền đề cho việc đổi mới giáo dục theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh. Trong đó, tài liệu triển khai trường học mới được thiết kế theo hướng sách giáo khoa mô hình hoạt động, chú trọng hướng dẫn học sinh tự học; giáo viên gợi ý, hướng dẫn, hỗ trợ và là trọng tài để thảo luận, kiểm soát quá trình và kết quả học. Giáo viên đã thay đổi từ truyền thụ kiến thức một chiều sang tổ chức, hướng dẫn học sinh cách học, tự học, thúc đẩy các nhóm và từng cá nhân học sinh hoạt động tích cực. Học sinh được phát huy vai trò chủ thể của quá trình học tập, biết cách học; chủ động, tự tin trong tương tác, giao tiếp với giáo viên và bạn bè; biết tương trợ nhau trong học tập để cùng tiến bộ. Nhận thức của nhiều cha mẹ học sinh về vai trò, trách nhiệm của mình trong việc giáo dục con cái thay đổi.
Hình thức tổ chức dạy học ở các địa phương đã chú trọng các hoạt động trải nghiệm sáng tạo gắn với thực tiễn nhằm nâng cao phẩm chất, năng lực người học. Tuy nhiên, việc chuyển từ chương trình giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực, phẩm chất người học là công việc khó khăn, thách thức, cần sự kiên trì để hoàn thành mục tiêu bảo đảm nền giáo dục chất lượng, công bằng và toàn diện.
Tiếp tục đầu tư, chăm lo giáo dục nhằm phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực người học theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
Giai đoạn 2021 - 2030 là giai đoạn phát triển mới, mang tính bứt phá, nhất là việc đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nhanh chóng. Để phát triển toàn diện năng lực, phẩm chất của người học theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần chú ý thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, thấm nhuần quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu, tích cực triển khai chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trên thực tế và trên mọi mặt, từ nội dung, chương trình, cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, xây dựng đội ngũ giáo viên, đội ngũ quản lý giáo dục có phẩm chất, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,… một cách đồng bộ, hiệu quả. Phát động mạnh mẽ phong trào tự học trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động làm nòng cốt và tạo sức lan tỏa về học tập suốt đời ra xã hội.
Quá trình học tập suốt đời phải được gắn liền với quá trình đánh giá năng lực của mỗi người một cách thường xuyên. Có thể xây dựng một quy trình, gồm các bước: (i) Xác định tri thức chung hay nghề nghiệp (toán, tin học, ngôn ngữ, kế toán, tài chính, quản lý...); (ii) Thiết kế một hệ thống hợp thức hóa đối với từng tri thức mà mỗi cá nhân có được trong quá trình lao động và làm việc sau này; (iii) Đưa ra các cách đánh giá mới linh hoạt để thừa nhận những năng lực đó. Ngoài hệ thống chính quy, hệ thống này cho phép mang lại tính độc lập cho từng cá nhân trong việc xây dựng trình độ cho mình. Gắn việc tự học với phong trào xây dựng xã hội học tập thành một tiêu chí đánh giá thi đua của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên hằng năm.
Hai là, có cơ chế, chính sách bố trí tỷ lệ ngân sách phù hợp cho công tác xây dựng xã hội học tập. Tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức, cá nhân được tiếp cận hoặc tạo ra những cơ hội học tập cho mọi người dân. Đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục làm cơ sở thúc đẩy chuyển đổi số trong xã hội và học tập suốt đời. Tăng cường đầu tư cho giáo dục, mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học ngoại ngữ, coi trọng dạy, học và sử dụng tiếng Anh. Cần nhanh chóng chuẩn hóa tiêu chuẩn, trình độ giáo viên; chương trình, nội dung giảng dạy; phương pháp đào tạo trên cơ sở tăng cường điều kiện vật chất (trường, lớp, giáo viên, các phương tiện giảng dạy và học tập). Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan từ Trung ương đến địa phương, cơ sở trong đào tạo nguồn nhân lực.
Ba là, để phát huy tiềm năng, năng lực và xây dựng năng lực tự học của từng người dân, từng cộng đồng dân cư, cần quan tâm, dành nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, hạ tầng internet cho các cơ sở giáo dục, trung tâm học tập cộng đồng, hệ thống thư viện... Cùng với đó là tận dụng các nền tảng công nghệ để xây dựng, cung ứng đa dạng các kênh và công cụ học tập; tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn về kỹ năng tìm kiếm, khai thác sử dụng thông tin trên internet một cách hiệu quả, an toàn, phù hợp cho các đối tượng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng yêu cầu, xác định rõ mục tiêu của giáo dục trong giai đoạn tới nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc và “chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc,... khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(10).
Bốn là, để thích ứng với bối cảnh mới, yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người. Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đặc biệt, chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài, đồng thời, đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt. Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông thôn; giảm tỷ lệ lao động khu vực phi chính thức. Hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động.
Năm là, tập trung xây dựng và hoàn thiện các đề án đào tạo nguồn nhân lực và nhân lực chất lượng cao cho các lĩnh vực trọng điểm, thiết yếu, trong đó, cần đề xuất các cơ chế tài chính cụ thể để hỗ trợ người học. Tăng cường hợp tác trong mạng lưới, hợp tác với doanh nghiệp và hợp tác quốc tế, gắn kết đào tạo nguồn nhân lực với nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, địa phương. Nâng cấp các hệ thống thông tin quản lý, hoàn thiện cơ sở dữ liệu giáo dục đại học tại các cơ sở giáo dục đại học để bảo đảm khả năng kết nối và chia sẻ dữ liệu.
Quan điểm về phát triển giáo dục trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng có ý nghĩa sâu sắc, khẳng định tính kế thừa, sự nhất quán trong quan điểm của Đảng khi coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, lấy con người là trung tâm của mọi quyết sách phát triển, để xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc./.
_________________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, T. I, tr. 232.
(2) Hồ Chí Minh (2002),Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, T. 8, tr. 64.
(3) Phạm Xuân Nam (2002), Triết lý phát triển ở Việt Nam: Mấy vấn đề cốt yếu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 321.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam (2011),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 77.
(5) Phạm Xuân Nam, Triết lý phát triển ở Việt Nam: Mấy vấn đề cốt yếu, Sđd, tr. 322.
(6) Hồ Chí Minh (2011),Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, T. 4, tr. 40.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016),Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 115.
(8) Phạm Văn Linh (2015), Định hướng chiến lược, giải pháp đột phá nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 30.
(9), (10) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 232 - 233, 136 - 137.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 31/11/2023
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận