Phương pháp đối thoại trong công tác tư tưởng
Phương pháp đối thoại trong công tác tư tưởng
Công tác tư tưởng là một hoạt động có mục đích rõ ràng. Mục đích ấy chỉ có thể đạt được khi có sự tham gia tích cực, chủ động không những của chủ thể mà còn của cả đối tượng trong quá trình thực hiện phương pháp chuyển tải nội dung công tác tư tưởng. Đặc điểm đối tượng công tác tư tưởng là con người có cá tính, có thói quen, có tình cảm, biết tư duy, có ý thức. Vì thế, đối tượng không chỉ tiếp thu thụ động mà còn có sự độc lập, chủ động, sáng tạo đối với những tác động của chủ thể công tác tư tưởng. Mặt khác, đối tượng còn có tác động trở lại rất lớn đối với chủ thể công tác tư tưởng, đòi hỏi chủ thể không ngừng cải tiến, hoàn thiện phương pháp của mình.
Dựa trên những căn cứ phân loại khác nhau, phương pháp công tác tư tưởng được phân chia thành nhiều phương pháp như: phương pháp độc thoại, phương pháp đối thoại, phương pháp trực quan, phương pháp nêu gương, phương pháp cá nhân... Mỗi phương pháp đều có những ưu thế và hạn chế nhất định mà chủ thể công tác tư tưởng có thể vận dụng sáng tạo trong trường hợp cụ thể để phát huy tác dụng của nó. Bài viết này chủ yếu bàn về phương pháp đối thoại trong công tác tư tưởng hiện nay.
Trước đây, khi phương tiện chuyển tải thông tin còn nghèo nàn, trình độ dân trí chưa cao, phương pháp độc thoại với mục đích cung cấp nhiều thông tin thường chiếm ưu thế trong công tác tư tưởng. Ngày nay, cùng với sự bùng nổ thông tin và trình độ dân trí không ngừng nâng lên, nhu cầu ‘’định hướng thông tin’’ nổi lên hàng đầu. Hơn nữa, cùng một vấn đề tư tưởng có nhiều quan điểm, nhiều ý kiến mà chỉ có thông qua tranh luận, trao đổi mới có thể đi đến thống nhất được. Bởi vậy, có thể nói rằng, yêu cầu sử dụng phương pháp đối thoại trong công tác tư tưởng ngày càng tăng.
Có thể hiểu: Phương pháp đối thoại trong công tác tư tưởng là phương pháp cùng trao đổi ý kiến, thảo luận, tranh luận giữa hai hay nhiều người để làm sáng tỏ hay đi đến thống nhất quan niệm, quan điểm, tư tưởng nào đó.
Ưu điểm nổi bật của phương pháp đối thoại là nó có thể thực hiện thông tin hai chiều, giải đáp kịp thời những vấn đề nhiều người quan tâm với sự tham gia ý kiến của cả chủ thể và đối tượng công tác tư tưởng. Phương pháp này đặt ra các tình huống “có vấn đề”, cuốn hút đối tượng cùng tham gia giải quyết trong quá trình nhận thức, kích thích cả trí nhớ lẫn tư duy, gây hứng thú, chủ động tìm hiểu quan điểm, tư tưởng. Vì thế, những nội dung cần truyền đạt trong công tác tư tưởng thường được đối tượng hiểu sâu, nhớ rất lâu. Có ý kiến cho rằng, sử dụng phương pháp đối thoại có thể lưu giữ khoảng 50% thông tin trong khi sử dụng phương pháp độc thoại chỉ lưu giữ khoảng 5-20% thông tin.
Thông qua đối thoại, đối tượng được trình bày ý kiến của mình, được giải toả tâm lý về những vấn đề tư tưởng còn đang băn khoăn, khúc mắc. Đối thoại thành công, cũng có nghĩa là tư tưởng được thông suốt. Đây là tiền đề quan trọng cho sự thống nhất về hành động cách mạng. Phương pháp đối thoại được sử dụng thường xuyên sẽ rèn kỹ năng tư duy lôgíc và khả năng ăn nói lưu loát cho người tham gia đối thoại. Bởi vì, để ý kiến của mình có thể thuyết phục người khác, người nói bao giờ cũng cần phải cố gắng khái quát, tổng hợp ý kiến, trình bày ý kiến mạch lạc, lập luận vấn đề chặt chẽ.
Tuy nhiên, đối thoại là một phương pháp khó, đòi hỏi chủ thể công tác tư tưởng cần có trình độ tri thức vững vàng, quan điểm lập trường rõ ràng, đủ khả năng hướng đối tượng đi đến những quan điểm, tư tưởng của Đảng. Trong đối tượng có những ý kiến khá sắc sảo mà ngay cả chủ thể cũng chưa hề nghĩ đến hoặc nắm chưa chắc. Nếu không có trình độ tri thức vững vàng, quan điểm lập trường rõ ràng, chủ thể rất có thể rơi vào tình thế lúng túng, bị động.
Cùng một vấn đề nêu ra, có thể có rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Trong khi đó, tâm lý người tham gia đối thoại bao giờ cũng mong muốn người khác hiểu ý mình, muốn khẳng định ý kiến của mình, bảo vệ quan điểm của mình. Vì thế, không khí cuộc đối thoại đôi khi trở nên rất căng thẳng và khó đi đến thống nhất quan điểm được. Đó cũng là hạn chế thường gặp ở những cuộc đối thoại giải quyết các vấn đề về nhu cầu, lợi ích.
Phương pháp đối thoại thường chỉ tác động trực tiếp đến một hoặc một số ít người trong mỗi lần tác động. Trừ khi, nó được diễn ra trước một đám đông hoặc được truyền đi qua sóng phát thanh, truyền hình đến đông đảo công chúng trong xã hội.
Với đặc điểm là phương pháp cùng trao đổi ý kiến, tranh luận giữa chủ thể công tác tư tưởng và đối tượng để làm sáng tỏ những vấn đề tư tưởng, các phương pháp nêu vấn đề, toạ đàm, hỏi đáp... là những phương pháp đối thoại có hiệu quả trong công tác tư tưởng hiện nay cần được tăng cường sử dụng.
Phương pháp nêu vấn đề là phương pháp tạo ra những tình huống có vấn đề mâu thuẫn giữa những kiến thức đã có sẵn ở đối tượng, và những kiến thức mới cần trang bị cho họ, bằng hệ thống câu hỏi. Các câu hỏi được giải đáp sẽ cung cấp những tri thức mà chủ thể có nhiệm vụ truyền đạt cho đối tượng. Việc giải quyết các vấn đề đó có thể thực hiện thông qua đối thoại trực tiếp giữa chủ thể và đối tượng, nhưng cũng có thể thông qua sự ‘’tự đối thoại’’ của chủ thể để đưa ra phương án giải đáp. Khi chủ thể vừa là người đặt vấn đề và tự giải quyết vấn đề thì phương pháp nêu vấn đề có quan hệ gần gũi với phương pháp thuyết trình, giảng giải, bổ sung, hỗ trợ cho phương pháp ấy.
Trong phương pháp nêu vấn đề với nghĩa là một phương pháp đối thoại, chủ thể thường nêu ra những quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về cùng một vấn đề, sau đó khơi gợi đối tượng suy nghĩ, thảo luận tìm ra bản chất vấn đề. Từ đó, hướng dẫn đối tượng tự đi đến kết luận trên cơ sở lập luận lô gích để bảo vệ quan điểm mà mình tán thành, nhất trí.
Khi sử dụng phương pháp nêu vấn đề, đối tượng phải huy động tư duy của mình để cùng giải quyết vấn đề đặt ra, phát huy được tính tích cực, và tư duy độc lập, sáng tạo của họ, đồng thời nâng cao cảm xúc do niềm vui tự nhận thức mang lại. Vì vậy, kiến thức thường được khắc sâu, nhớ lâu. Hơn nữa, nó là điều kiện tốt để rèn luyện, mài sắc tư duy, trí tuệ của đối tượng, rèn kĩ năng xử lý các tình huống có vấn đề trong công tác tư tưởng nói riêng, trong cuộc sống nói chung.
Hạn chế của phương pháp nêu vấn đề là ở chỗ: đây là phương pháp khó, chỉ thích hợp với những nội dung nhất định của công tác tư tưởng khi mà có mâu thuẫn lớn giữa hiện tượng và bản chất của vấn đề hoặc mâu thuẫn quan điểm do việc nhìn nhận vấn đề một cách phiến diện, một chiều. Chẳng hạn, khi đặt vấn đề: ‘’có quan điểm cho rằng, trong cơ chế thị trường hiện nay không cần làm công tác tư tưởng. Như vậy có đúng không? Vì sao?’’ Trong trường hợp này, quan điểm trên cũng có khía cạnh đúng khi nhìn từ góc độ ‘’vật chất quyết định ý thức’’, ‘’tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội’’, nhưng rõ ràng là chưa đầy đủ vì chưa thấy sự tác động trở lại của ý thức, tư tưởng đối với vật chất, với tồn tại xã hội.
Nếu vấn đề đặt ra quá dễ sẽ không có tác dụng làm cho đối tượng phải ‘’động não’’ vì họ chỉ cần dùng kinh nghiệm và kiến thức đơn giản sẵn có giải quyết vấn đề một cách hời hợt. Ngược lại, nếu vấn đề đặt ra lại quá khó sẽ làm cho đối tượng rơi vào bế tắc, chán nản không biết giải quyết như thế nào hoặc chệch ra khỏi mục tiêu kiến thức cần đạt tới.
Phương pháp nêu vấn đề đòi hỏi chủ thể phải nắm vững trình độ đối tượng để xác định vấn đề phù hợp với khả năng giải quyết của họ (không quá khó hoặc quá dễ). Vấn đề nêu lên phải liên quan kiến thức cần truyền đạt, có cơ sở lý luận và thực tiễn để giải quyết, có thể gây được không khí tranh luận với những ý kiến khác nhau. Mặt khác, chủ thể cần có sự chuẩn bị công phu từ trước, dự kiến được phương án giải quyết vấn đề phù hợp với kiến thức cần truyền đạt, chứ không nên sử dụng một cách tự phát, ngẫu hứng.
Phương pháp nêu vấn đề thường được sử dụng trong giáo dục lý luận chính trị.
Phương pháp toạ đàm là phương pháp cùng tranh luận, trao đổi của một nhóm người về một vấn đề tư tưởng, dưới sự chủ trì của chủ thể công tác tư tưởng, nhằm đi đến thống nhất và nhận thức sâu sắc hơn về vấn đề ấy.
Ưu thế của phương pháp toạ đàm là thông qua toạ đàm, đối tượng tăng cường hiểu biết, có điều kiện học hỏi lẫn nhau; nội dung tư tưởng qua thảo luận được khắc sâu, nhớ lâu hơn. Nếu toạ đàm được truyền đi qua sóng phát thanh hay truyền hình, thì tác động tư tưởng không chỉ dừng lại ở nhóm mà còn đến đông đảo khán, thính giả.
Phương pháp toạ đàm đòi hỏi người chủ trì cần có sự chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng từ việc lựa chọn đề tài thảo luận phải là vấn đề được nhiều người quan tâm, nhưng chưa có ý kiến thống nhất hoặc giải pháp khả thi, đến việc chuẩn bị “kịch bản” cho nội dung, với hệ thống câu hỏi và đáp án xoay quanh vấn đề sẽ thảo luận. Hơn nữa, người chủ trì cuộc toạ đàm phải là người có hiểu biết sâu sắc và phong phú về đề tài, có khả năng tổng hợp ý kiến và định hướng tư tưởng đúng đắn. Mặt khác, cần phải có địa điểm và thời gian xác định với sự tham gia trực tiếp của một nhóm người có ít nhiều hiểu biết về đề tài toạ đàm.
Phương pháp toạ đàm thường được sử dụng trong sinh hoạt của các tổ chức chính trị hay tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng (nhất là truyền hình).
Phương pháp hỏi đáp là một phương pháp đối thoại mà vấn đề được nêu lên bởi đối tượng, chủ thể sẽ là người trả lời hoặc định hướng cách giải đáp vấn đề nhằm đi đến thống nhất hoặc hiểu sâu thêm về một quan niệm, quan điểm, tư tưởng nào đó.
Ưu thế của phương pháp hỏi đáp là nó thể hiện tính tích cực, chủ động của đối tượng một cách rõ nét nhất; có thể đáp ứng nhu cầu nhận thức của đối tượng một cách sâu sát, thiết thực nhất. Đồng thời, nó cũng tạo động lực để chủ thể không ngừng nâng cao trình độ, tầm hiểu biết của mình.
Hạn chế của phương pháp hỏi đáp là đôi khi nó đặt chủ thể vào tình huống bị động, khó xử trước những vấn đề mà chủ thể chưa hề biết tới hoặc nắm chưa chắc chắn, đầy đủ. Vì thế, phương pháp này đòi hỏi chủ thể phải có tầm hiểu biết rộng, kinh nghiệm và nghệ thuật đối thoại cao để ứng phó linh hoạt với các câu hỏi khó, bất ngờ. Mặt khác, nếu đối tượng hạn chế về nhận thức thì sẽ không biết đặt câu hỏi gì hoặc hỏi ‘’lạc đề’’ cũng sẽ hạn chế hiệu quả của phương pháp này.
Điều kiện sử dụng phương pháp hỏi đáp có hiệu quả là chủ thể phải trả lời rõ ràng, đi đúng vào trọng tâm câu hỏi tránh trả lời vòng vo, loanh quanh; lập luận phải chặt chẽ có căn cứ xác đáng. Nếu xét thấy câu hỏi khó trả lời thì tìm cách ‘’từ chối khéo’’ như hẹn vào thời gian khác (cuối buổi hoặc buổi sau...) sao cho người hỏi thoải mái, thông cảm chứ không nên ‘’nói đại’’ khi mà mình nắm không chắc, biết không hết. Chủ thể phải rèn luyện kinh nghiệm và nghệ thuật đối thoại và không ngừng trau dồi kiến thức chuyên môn, hiểu biết rộng.
Phương pháp hỏi đáp thường sử dụng trong công tác tư tưởng dưới hình thức học tập nghị quyết, nghe thời sự hoặc trong các cuộc giao lưu theo các chủ đề tư tưởng nào đó.
Để sử dụng phương pháp đối thoại có kết quả tốt, cần lưu ý mấy điều cơ bản sau đây:
Một là, phải đảm bảo môi trường tâm lý thuận lợi cho đối thoại. Đó là thái độ chân thành, cởi mở, thẳng thắn, bình đẳng và thể hiện sự tôn trọng với đối tượng đối thoại. Chỉ có như vậy, đối tượng mới mạnh dạn trình bày hết những ý kiến của mình mà trong nhiều trường hợp, rất cần thiết cho việc nắm bắt dư luận, dự báo tình hình trong công tác tư tưởng.
Hai là, chủ thể hiểu biết sâu sắc và phong phú về chủ đề đối thoại, biết cách khơi gợi vấn đề để thảo luận, tranh luận đúng hướng và nhất là có khả năng ứng phó linh hoạt với những tình huống phức tạp, bất ngờ có thể diễn ra trong cuộc đối thoại. Muốn như vậy, chủ thể phải thường xuyên trau dồi kiến thức, tích luỹ kinh nghiệm để có tầm hiểu biết rộng và nghệ thuật đối thoại cao.
Ba là, các thành viên tham gia đối thoại cũng phải tương đối hiểu biết về chủ đề đối thoại và có thiện chí xây dựng ý kiến đúng đắn, thống nhất. Nếu không nắm được những vấn đề liên quan đến chủ đề đối thoại, họ có thể không có ý kiến hoặc nêu lên những ý kiến hời hợt, làm cho cuộc đối thoại trở nên tẻ nhạt. Nếu không có thiện chí xây dựng ý kiến thống nhất, họ có thể ‘’nói phá ngang’’ hoặc ‘’cãi lấy được’’ làm cho không khí cuộc đối thoại phức tạp và căng thẳng.
Bốn là, chủ thể phải khéo léo, tế nhị, kiên trì lái cuộc đối thoại theo hướng tích cực, tán thành và ủng hộ những ý kiến thẳng thắn, đúng đắn. Trong trường hợp có ý kiến trái ngược, cần phải phản bác bằng luận chứng, luận cứ khoa học, chứ không phải bằng quy kết, áp đặt ý kiến chủ quan. Biết tự kiềm chế, thuyết phục và chờ đợi đối tượng trong đối thoại, cũng là nghệ thuật nhằm nâng cao hiệu quả trong sử dụng phương pháp này.
Năm là, chủ thể phải có khả năng tổng hợp ý kiến qua đối thoại, đứng trên lập trường, quan điểm của Đảng để nêu được ý kiến có tính định hướng tư tưởng.
Nói tóm lại, đối thoại là phương pháp rất phù hợp với quá trình dân chủ hoá và yêu cầu định hướng trong công tác tư tưởng hiện nay. Bởi vậy, cán bộ công tác tư tưởng nên nắm vững và sử dụng tốt phương pháp này trong những tình huống phù hợp để góp phần nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng.
__________________________
Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 2 (tháng 3+4).2005
TS Trần Thị Anh Đào
Bài liên quan
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên
- Yêu cầu về chất lượng thông tin Cổng thông tin điện tử các trường đại học hiện nay
- Giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
- Cán bộ, đảng viên Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền với việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa trường Đảng
- Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội trong phát huy giá trị văn hóa truyền thống hiện nay
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
5
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
-
6
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên hiện nay
Bài viết phân tích số liệu khảo sát đánh giá nhu cầu về nội dung tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên trong các lĩnh vực như giải trí; học tập - nghề nghiệp; thời sự - chính trị; kinh tế; khoa học - công nghệ; y tế - sức khỏe; nhu cầu tiếp cận thông tin của sinh viên qua các loại hình báo chí - truyền thông: báo in, báo mạng điện tử, phát thanh, truyền hình. Kết quả nghiên cứu giúp nắm bắt chính xác nhu cầu thông tin báo chí của sinh viên hiện nay; góp phần làm căn cứ để các cơ quan báo chí có thể điều chỉnh nội dung, hình thức phù hợp, đáp ứng nhu cầu của giới trẻ; góp phần hỗ trợ quá trình giáo dục, định hướng giá trị và phát triển nguồn nhân lực trẻ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên là một hệ thống quan điểm có tính toàn diện, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Người. Tư tưởng và phong cách lãnh đạo của Hồ Chí Minh thể hiện ở tư duy đổi mới, phương pháp làm việc khoa học, dân chủ, nêu gương, gắn bó với quần chúng. Đồng thời, Người yêu cầu lãnh đạo phải dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hy sinh vì lợi ích chung, chống quan liêu, hình thức, chủ nghĩa cá nhân. Phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh vì vậy là tấm gương mẫu mực về đạo đức, trí tuệ và bản lĩnh, mãi soi sáng cho công tác lãnh đạo, quản lý và rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Yêu cầu về chất lượng thông tin Cổng thông tin điện tử các trường đại học hiện nay
Yêu cầu về chất lượng thông tin Cổng thông tin điện tử các trường đại học hiện nay
Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, Cổng thông tin điện tử (Cổng TTĐT) của các trường đại học không chỉ đóng vai trò là kênh cung cấp thông tin chính thống mà còn trở thành công cụ hỗ trợ đào tạo - nghiên cứu, quảng bá hình ảnh của nhà trường. Cho đến nay, hầu hết các trường đại học ở Việt Nam đều đã xây dựng và vận hành Cổng TTĐT, thể hiện sự quan tâm và nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của loại hình truyền thông này. Nhiều Cổng đã phát huy hiệu quả, bảo đảm tính chính xác, kịp thời, thân thiện với người dùng và có sức lan tỏa nhất định trong xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn không ít Cổng TTĐT hoạt động mang tính hình thức; nội dung thông tin chưa đa dạng, cập nhật, chưa phát huy được hết các tính năng truyền thông. Trước thực tế đó, từ bình diện lý thuyết, bài viết tập trung phân tích, làm rõ các khái niệm liên quan và yêu cầu đặt ra về chất lượng thông tin của Cổng TTĐT các trường đại học, góp phần giúp nhà trường thực hiện tốt hoạt động truyền thông, nâng cao hình ảnh, khẳng định thương hiệu trong kỷ nguyên số.
Giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
Giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
Cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, sáp nhập đơn vị hành chính các cấp, vận hành chính quyền địa phương 2 cấp ở nước ta đang được triển khai mạnh mẽ theo quan điểm bảo đảm “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Cuộc cách mạng này đòi hỏi sự quyết tâm, đồng thuận rất cao và cũng đặt ra những thách thức to lớn cho đội ngũ công chức nói chung và công chức cấp xã nói riêng ở tỉnh Hà Tĩnh. Bài viết phân tích một số vấn đề đặt ra, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ công chức cấp xã, góp phần vận hành thông suốt hiệu quả chính quyền địa phương 2 cấp ở tỉnh Hà Tĩnh thời gian tới.
Cán bộ, đảng viên Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền với việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa trường Đảng
Cán bộ, đảng viên Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền với việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa trường Đảng
Trong quá trình xây dựng và phát triển, Học viện Báo chí và Tuyên truyền không chỉ khẳng định vị thế là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lý luận chính trị, báo chí và truyền thông hàng đầu của Đảng và Nhà nước, mà còn là một trường Đảng, trường Đại học tiêu biểu thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Bước vào giai đoạn mới, khi đất nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế và chuyển đổi số, việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa trường Đảng trở thành yêu cầu hết sức cấp thiết. Trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền giữ vai trò then chốt, vừa giữ gìn, kế thừa, vừa sáng tạo, lan tỏa; qua đó góp phần nâng tầm giá trị văn hóa trường Đảng, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước trong thời kỳ mới.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận