Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về gia đình và vận dụng xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta
Theo Ăngghen, các mô hình gia đình trong lịch sử luôn gắn với phương thức sản xuất và chế độ xã hội nhất định. Sự vận động, biến đổi của gia đình phụ thuộc vào sự vận động và biến đổi của xã hội. Gia đình “là sản vật của một chế độ xã hội nhất định, hình thức đó sẽ phản ánh trạng thái phát triển của chế độ xã hội đó”.
Ăngghen cũng vạch rõ nguồn gốc phát triển của các hình thức gia đình trong lịch sử là do sự tác động của quy luật đào thải tự nhiên và do sự phát triển của những điều kiện kinh tế - xã hội, sự phát triển của tâm lý, đạo đức, tình cảm của con người, trong đó sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội là yếu tố quyết định.
Những điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định có tác dụng quyết định đến hình thức tổ chức và kết cấu của gia đình. “Chế độ gia đình hoàn toàn bị quan hệ sở hữu chi phối”. Ngược lại, gia đình và trình độ phát triển của gia đình cũng có tác động rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến việc tái tạo ra bản thân con người để bảo vệ nòi giống cũng như tái tạo ra sức lao động cho sản xuất xã hội.
Qua khảo cứu lịch sử, Ăngghen nhận thấy, trong thời kỳ đầu tiên của lịch sử nhân loại đã từng tồn tại những hình thức khác nhau của chế độ quần hôn, sau đó xuất hiện hôn nhân đối ngẫu, kết hợp những đôi riêng lẻ trong một thời kỳ nhất định. Cuối cùng, chế độ hôn nhân một vợ, một chồng xuất hiện.
Gia đình một vợ, một chồng được nảy sinh từ gia đình cặp đôi vào lúc giao thời giữa giai đoạn giữa và giai đoạn cao của thời đại dã man. Thắng lợi của gia đình một vợ, một chồng là một trong những dấu hiệu của buổi đầu của thời đại văn minh. Gia đình một vợ, một chồng được hình thành chủ yếu do sự phát triển của lực lượng sản xuất làm nảy sinh chế độ tư hữu và sự phân chia giai cấp trong xã hội. Hình thức này được duy trì cho đến ngày nay và sẽ ngày càng hoàn thiện hơn khi xuất hiện chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Gia đình một vợ, một chồng trong chế độ tư hữu trở thành những đơn vị kinh tế của xã hội. Ăngghen viết: Việc chuyển sang chế độ tư hữu hoàn toàn được thực hiện dần dần và song song với việc chuyển từ hôn nhân cặp đôi sang chế độ một vợ một chồng. Gia đình cá thể bắt đầu trở thành đơn vị kinh tế của xã hội. Ph.Ăngghen vạch rõ chế độ một vợ một chồng là hình thức gia đình đầu tiên không dựa trên những điều kiện tự nhiên mà dựa trên những điều kiện kinh tế, tức là trên thắng lợi của sở hữu tư nhân đối với sở hữu công cộng nguyên thủy và tự phát.
Sự phân tích toàn diện của Ăngghen về quá trình phát sinh và phát triển của các hình thức gia đình cho thấy tính liên tục một cách khoa học nhất, đúng đắn nhất của lịch sử nhân loại, điều mà trước kia chưa từng diễn ra. Lần đầu tiên trong lịch sử, bằng những cứ liệu khoa học, Ăngghen đã chỉ ra các hình thức hôn nhân chính tương ứng với các giai đoạn phát triển khác nhau của nhân loại.
Khi viết về gia đình, về hôn nhân và tình yêu nam nữ, Ăngghen tán thành quan điểm của Moóc gan cho rằng: “Gia đình là yếu tố năng động, nó không bao giờ đứng nguyên một chỗ, mà chuyển từ hình thức thấp lên một hình thức cao, như xã hội phát triển từ một giai đoạn thấp lên một giai đoạn cao”.
Các Mác và Ăngghen đã vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử để nghiên cứu xã hội loài người. Các ông coi sự vận động phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên. Các ông cũng dự báo sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu của nó là “chủ nghĩa xã hội”. Điều đó là do quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất thì con người có vai trò quyết định, mà con người cụ thể chính là sản phẩm duy trì nòi giống của gia đình.
Trong nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, không chỉ các quan hệ xã hội mà cả quan hệ gia đình cũng bị thay đổi. Sự yên ấm của từng gia đình cũng có thể bị phá vỡ theo dòng xoáy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa: “Chính nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại có sứ mệnh phải gây cho lối hôn nhân đó một vết rạn quyết định. Biến mọi thứ thành hàng hoá” đồng thời “xé toang tấm màn tình cảm bao phủ những quan hệ gia đình và làm cho những quan hệ ấy chỉ còn là những quan hệ tiền nong đơn thuần”.
Gia đình của xã hội văn minh được hình thành trên nền tảng của tình yêu và hôn nhân, đó cũng là những quyền hết sức cơ bản của con người - quyền được tự do yêu đương và tự do kết hôn, được cộng đồng xã hội tôn trọng và bảo vệ: “Hiện nay chỉ có trong giai cấp vô sản thì tình yêu nam nữ mới có thể trở thành một quy tắc”, và muốn thực hiện được điều đó,“tất yếu phải xác lập sự bình đẳng xã hội thật sự giữa hai bên”. Dưới chế độ tư hữu, phụ nữ phải chịu đựng một nghịch lý: vai trò lớn nhưng địa vị thấp hèn cả trong gia đình lẫn ngoài xã hội; luôn chịu cảnh bất bình đẳng với nam giới, bị bóc lột, bị tha hoá. Trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau, các hình thức bất bình đẳng tuy có thay đổi nhưng bản chất thì không thay đổi. Các Mác còn tố cáo sự lợi dụng, bóc lột tinh vi, dã man và tàn bạo của chủ nghĩa tư bản. Phụ nữ bị đối xử kém hơn cả so với súc vật, họ phải lao động nặng nhọc trong những điều kiện khắc khổ: “để kéo thuyền dọc sông Đào, thỉnh thoảng người ta vẫn còn dùng phụ nữ thay cho ngựa”.
Theo Lênin: “Muốn triệt để giải phóng phụ nữ, muốn làm cho họ thực sự bình đẳng với nam giới, thì phải có nền kinh tế chung của xã hội, phải để phụ nữ tham gia vào lao động sản xuất chung. Như thế, phụ nữ mới có địa vị bình đẳng với nam giới”.
Ăngghen viết: “Hiện nay, chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng xã hội, trong đó các cơ sở kinh tế từ trước tới nay của chế độ một vợ một chồng cũng như cơ sở của điều bổ sung cho nó là nạn mại dâm, đều nhất định sẽ bị tiêu diệt…các tư liệu sản xuất mà được chuyển thành tài sản xã hội thì chế độ lao động làm thuê, giai cấp vô sản cũng sẽ biến mất, và đồng thời cũng sẽ không còn một tình trạng một số phụ nữ… cần thiết phải bán mình vì đồng tiền nữa... chế độ một vợ một chồng không những không suy tàn, mà cuối cùng lại còn trở thành một hiện thực - ngay cả đối với đàn ông nữa”. Tuy nhiên nếu gia đình một vợ một chồng không đáp ứng được yêu cầu của xã hội, không tiến triển cùng được với sự tiến triển của xã hội thì tất yếu sẽ có một hình thức gia đình mới ra đời thay thế nó. Vậy là theo quy luật phát triển, loài người tất yếu sẽ tiến một bước cao hơn thời đại xã hội tư bản chủ nghĩa, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa mà trước hết phải xây dựng giai đoạn đầu - xã hội xã hội chủ nghĩa. Gia đình cũng vậy, cũng phải có những bước tiến để theo kịp và phản ánh đúng, tiến triển cùng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin một mặt đánh giá cao vai trò của gia đình với sứ mệnh đặc biệt mà không một thiết chế xã hội nào thay thế được, mặt khác cũng dự báo sự ra đời, phát triển của gia đình một vợ một chồng là một bước tiến nhất định trong tương lai, nhưng nó chỉ có thể trọn vẹn khi xây dựng gia đình trong xã hội xã hội chủ nghĩa, phù hợp với tiến trình của lịch sử.
Tiếp thu lý luận Mác - Lênin, Đảng ta rất quan tâm đến gia đình, đến việc xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa - gia đình văn hóa. Xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa trước hết là phải tạo dựng ra những điều kiện cần thiết trên mọi phương diện giúp các thành viên trong gia đình sống một cách hòa hợp tốt đẹp với nhau bao gồm những yếu tố vật chất, tinh thần, xã hội, là xây dựng những điều kiện cho những yếu tố đó hình thành và phát triển. Do vậy xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa - gia đình văn hóa là công việc của mỗi gia đình và của toàn xã hội. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) chỉ rõ: “Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng tiến bộ và hạnh phúc, làm cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người. Phát huy trách nhiệm của mỗi người trong việc lưu truyền những giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác…”.
Như vậy, vấn đề xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa - gia đình văn hóa ở nước ta chính là nền tảng vững chắc đảm bảo cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đây là công việc mang tính toàn diện, đồng bộ, lâu dài nhưng lại rất cấp bách. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta hiện nay cần có những giải pháp thiết thực, hiệu quả. Trước hết cần nâng cao trách nhiệm quản lý, điều hành công tác gia đình. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, ngành, tổ chức đoàn thể, các gia đình, cá nhân và cộng đồng về vai trò của công tác xây dựng gia đình văn hóa, hướng tới mục tiêu gia đình bình đẳng, ấm no, hạnh phúc và tiến bộ. Phát triển kinh tế hộ gia đình nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, tạo cơ sở cho việc thực hiện tốt công tác xây dựng gia đình văn hóa. Đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở, làm cho gia đình trở thành cầu nối, gắn kết các cộng đồng dân tộc xích lại gần nhau vì mục tiêu chung là bảo tồn, gìn giữ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; xây dựng con người mới - con người xã hội chủ nghĩa./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Dân tộc điện tử ngày 9.6.2015
Bài liên quan
- Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
- Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
- Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
- Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới
Xem nhiều
-
1
[Video] Dấu ấn Cách mạng Tháng Tám qua những hiện vật lịch sử
-
2
[Video] Lễ diễu binh, diễu hành 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9
-
3
[Video] Mạch Nguồn số 74: Người lính thời bình giữ vững trận địa tư tưởng
-
4
[Video] Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam
-
5
[Video] Mạch Nguồn số 75: Đỏ niềm tin - Xanh ước mơ
-
6
[video] Mạch Nguồn số 71: 30/4 Ngày hoà bình, hành trình không ngừng tiến bước
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Công tác quản lý đội ngũ viên chức của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh hiện nay
Quản lý đội ngũ viên chức của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo, nghiên cứu và phục vụ sự nghiệp xây dựng Đảng, phát triển đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vẫn còn những bất cập, thách thức... Xuất phát từ thực tế trên, Ban Giám đốc Học viện đã có nhiều đổi mới và thu được những kết quả tích cực trong công tác này. Bài viết phân tích thực trạng quản lý đội ngũ viên chức của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, chỉ rõ một số hạn chế, bất cập, từ đó, làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quản lý đội ngũ viên chức của Học viện thời gian tới.
Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
Công tác tư tưởng, lý luận luôn là bộ phận cốt lõi trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, yêu cầu đặt ra là phải đổi mới toàn diện công tác tư tưởng, lý luận để vừa giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, vừa thích ứng linh hoạt với sự thay đổi sâu rộng trong xã hội, khoa học – công nghệ và truyền thông.
Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Tỉnh Lạng Sơn, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, giữ vị trí chiến lược trong công tác bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số. Trong thời gian qua, tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Lạng Sơn đã có những đóng góp tích cực vào quá trình quản lý nhà nước về văn hóa DTTS thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phong trào thanh niên và tham gia giám sát chính sách. Những kết quả đạt được bước đầu thể hiện vai trò nhất định của Đoàn trong việc kết nối giữa chính quyền và thanh niên DTTS. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy nhiều hạn chế như thiếu cơ chế phối hợp, chưa được thể chế hóa vai trò, năng lực cán bộ còn bất cập và thiếu nguồn lực bảo đảm hoạt động bền vững. Trên cơ sở phân tích thực trạng, bài viết tập trung làm rõ vai trò của tổ chức Đoàn trong quản lý nhà nước về văn hóa DTTS tại Lạng Sơn, đồng thời đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy hiệu quả hơn nữa vai trò này trong bối cảnh chuyển đổi mô hình quản trị hiện nay, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững văn hóa vùng dân tộc.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứTư và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức diễn ra mạnh mẽ, việc xây dựng lực lượng sản xuất mới trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam. Trong đó, nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò then chốt, quyết định khả năng tiếp thu, ứng dụng và sáng tạo khoa học – công nghệ, thúc đẩy năng suất lao động, đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Bài viết tập trung làm rõ vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay - nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở nước ta.
Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
Sự hình thành và phát triển của các hội là một phương thức cần thiết để các cá nhân và nhóm xã hội khác nhau có thể bày tỏ tiếng nói, ý kiến của mình trước cộng đồng xã hội, tạo sự hiểu biết, hiệp thương và đồng thuận nhằm giữ gìn sự ổn định xã hội. Ở Việt Nam, quyền lập hội của công dân đã được Hiến pháp quy định và trong thực tế Nhà nước đã tạo điều kiện cho hội hoạt động, phát triển qua việc ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh việc tổ chức và hoạt động của các hội. Bài viết đề cập đến khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của các hội trong bối cảnh phát triển ở Việt Nam hiện nay.
Bình luận