Quan niệm của Ph.Ăngghen về “sở hữu”, “sở hữu tư nhân” và ý nghĩa hiện thời của quan niệm đó
1. Quan niệm của Ph.Ăngghen về “sở hữu” và “sở hữu tư nhân”
Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quan trọng nhất, nó chi phối các mối quan hệ khác. Quan hệ sở hữu quy định địa vị của các tập đoàn người trong hệ thống sản xuất xã hội; quy định phương thức phân phối sản phẩm cho các tập đoàn người theo địa vị của họ đối với hệ thống sản xuất ấy.
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng: “Những giai đoạn phát triển khác nhau của sự phân công lao động cũng đồng thời là những hình thức khác nhau của sở hữu, nghĩa là mỗi giai đoạn của phân công lao động cũng quy định những quan hệ giữa cá nhân với nhau, tùy theo quan hệ của họ với tư liệu lao động, công cụ lao động và sản phẩm lao động”(1). Điều này có nghĩa là trong các giai đoạn phát triển khác nhau của sản xuất, của phân công lao động sẽ có những hình thức sở hữu khác nhau.
Cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen đã trình bày một cách khái quát những hình thức sở hữu từng diễn ra trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Theo đó, hình thức sở hữu đầu tiên là sở hữu bộ lạc. Hình thức sở hữu này “phù hợp với giai đoạn chưa phát triển của sản xuất, khi người ta sống bằng săn bắn và đánh cá, bằng chăn nuôi, hay nhiều lắm là bằng trồng trọt”(2). Trong hình thức sở hữu bộ lạc, phân công lao động đã hình thành một cách tự nhiên trong các gia đình phụ hệ nhưng vẫn còn ở trình độ thấp.
Hình thức sở hữu thứ hai là, “sở hữu công xã và sở hữu nhà nước thời cổ. Sở hữu này ra đời chủ yếu từ sự tập hợp - bằng hiệp ước hay bằng chinh phục - nhiều bộ lạc thành một thành thị, và dưới chế độ sở hữu này chế độ nô lệ vẫn tiếp tục được duy trì”(3).
Cùng với sở hữu công xã (sở hữu của một nhóm người liên hợp lại trong hình thức công xã) thì sở hữu tư nhân về động sản và sau này cả về bất động sản cũng đã phát triển nhưng dưới một hình thức sở hữu ngoại lệ và phụ thuộc vào sở hữu công xã. Trong thời kỳ này, theo Ph.Ăngghen: Toàn bộ cơ cấu xã hội được xây dựng trên nền tảng sở hữu công xã ấy - và cùng với nó, quyền lực của nhân dân, - phải tan rã theo mức phát triển của tư hữu bất động sản. Sự phân công lao động đã phát triển hơn và sự đối lập giữa thành thị với nông thôn và về sau - sự đối lập giữa những quốc gia đại biểu cho lợi ích của thành thị - và những quốc gia đại biểu cho lợi ích của nông thôn ngày càng trở nên sâu sắc hơn; và ngay bên trong các thành thị, chúng ta thấy có sự đối lập giữa công nghiệp và thương nghiệp hàng hải.
Hình thức sở hữu thứ ba là, “sở hữu phong kiến hay sở hữu đẳng cấp” với điểm xuất phát là nông thôn. Cũng như sở hữu bộ lạc và sở hữu công xã, sở hữu phong kiến cũng dựa vào một cộng đồng nhất định, nhưng những kẻ đối lập với cộng đồng này là những người tiểu nông bị nô dịch. Quyền lực tuyệt đối của quý tộc đối với nông nô là do cơ cấu đẳng cấp của chế độ chiếm hữu ruộng đất và các đội hộ vệ võ trang gắn liền với cơ cấu đẳng cấp đó đem lại. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, cơ cấu đẳng cấp phong kiến cũng không khác nhiều so với chế độ sở hữu công xã thời cổ. Tất cả cũng chỉ là sự kết hợp lợi ích của tầng lớp thống trị nhằm chống lại giai cấp bị thống trị, chỉ có điều hình thức kết hợp và quan hệ với những người sản xuất trực tiếp là khác nhau vì những điều kiện sản xuất cũng khác nhau mà thôi(4).
Hình thức sở hữu thứ tư là “sở hữu tư nhân thuần túy”, hình thức sở hữu này gắn với tư bản công trường thủ công - đến tư bản hiện đại, thứ tư bản do nền công nghiệp lớn và cạnh tranh phổ biến sinh ra. Sự xuất hiện của công trường thủ công và nhất là của “tư bản hiện đại” đã vượt quá quan hệ sở hữu phong kiến và phường hội, “tạo ra cho nó một hình thức sở hữu mới, - chế độ tư hữu. Đối với công trường thủ công và đối với giai đoạn phát triển ban đầu của đại công nghiệp, không thể có hình thức sở hữu nào khác ngoài quyền tư hữu, không thể có chế độ xã hội nào khác ngoài chế độ xã hội xây dựng trên cơ sở tư hữu”(5).
Vậy là, “sở hữu” chung, “sở hữu bộ lạc” thì xuất hiện tương đối sớm, còn “sở hữu tư nhân” thì xuất hiện muộn hơn. Theo Ph.Ăngghen, quyền sở hữu tư nhân - hay chế độ tư hữu đã manh nha ở chế độ phụ quyền. “Chế độ mẫu quyền đã nhường chỗ cho chế độ phụ quyền; do đó sở hữu tư nhân vừa mới nảy sinh đã chọc được một lỗ thủng đầu tiên trong chế độ thị tộc”(6).
Trong chế độ phụ quyền, “đàn ông đánh giặc, đi săn bắn và đánh cá, tìm nguyên liệu dùng làm thức ăn và kiếm những công cụ cần thiết cho việc đó. Đàn bà chăm sóc việc nhà, chuẩn bị cái ăn và cái mặc; họ làm bếp, dệt, may vá. Mỗi bên làm chủ trong lĩnh vực hoạt động riêng của mình: đàn ông làm chủ trong rừng, đàn bà làm chủ ở nhà. Mỗi bên đều là người sở hữu những công cụ do mình chế tạo ra và sử dụng: đàn ông làm chủ vũ khí, dụng cụ săn bắn và đánh cá; đàn bà làm chủ những dụng cụ gia đình”(7). Chính sự phân công lao động, trước hết là lao động gia đình trong chế độ phụ quyền là cơ sở để làm xuất hiện chế độ “sở hữu tư nhân”.
Khi chăn nuôi phát triển, những đàn gia súc bắt đầu chuyển thành sở hữu riêng. Hay như Ph.Ăngghen nói: “Những đàn súc vật được chuyển từ sở hữu công cộng của bộ lạc hoặc của thị tộc sang sở hữu của những người chủ gia đình cá thể… Với những đàn súc vật và những của cải mới khác, gia đình lúc đó đã trải qua một cuộc cách mạng”(8). Trong cuộc “cách mạng” này, sự trao đổi giữa cá nhân với nhau ngày càng chiếm ưu thế và cuối cùng trở thành hình thức trao đổi duy nhất và lúc này “gia súc đã trở thành hàng hóa dùng để đánh giá tất cả các hàng hóa khác và ở đâu đâu cũng được người ta vui lòng nhận đổi với các hàng hóa khác - tóm lại gia súc đã nhận được chức năng tiền tệ và nó được dùng làm tiền tệ ngay từ thời gian đó”(9).
Sự phát triển của sản xuất không chỉ làm xuất hiện quyền sở hữu riêng về gia súc mà còn làm xuất hiện quyền sở hữu của cá nhân về ruộng đất. Về vấn đề này, trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, Ph.Ăngghen có viết: “Cùng với sự ra đời của nền sản xuất hàng hóa, cũng xuất hiện việc những cá nhân riêng rẽ canh tác lấy ruộng đất để thu lợi cho chính mình, và sau đó chẳng bao lâu cũng xuất hiện quyền sở hữu ruộng đất của cá nhân”(10). Vậy là “không phải khi nào cũng có chế độ tư hữu”(11), chế độ tư hữu chỉ ra đời khi sản xuất xã hội đã đạt đến một trình độ phát triển nhất định nào đó mà thôi.
Như vậy, từ “sở hữu” chung đến “sở hữu tư nhân” và đến “sở hữu tư nhân thuần túy” là một sự vận động lịch sử. Sự vận động này đánh dấu sự phát triển của lực lượng sản xuất, đồng thời cũng đánh dấu sự “thụt lùi tương đối” về mặt xã hội, nhất là mặt đạo đức. Nói về “sự thụt lùi” này, Ph.Ăngghen viết: “Quyền lực của cộng đồng nguyên thủy đó nhất định phải bị đập tan - và nó đã bị đập tan. Nhưng nó đã bị đập tan bởi những ảnh hưởng mà chúng ta hoàn toàn coi là một sự suy đồi, là một tội tổ tông so với đỉnh cao của nền đạo đức của chế độ thị tộc cũ. Chính những lợi ích thấp hèn nhất - tính tham lam tầm thường, lòng khao khát hưởng lạc thô bạo, tính bủn xỉn bẩn thỉu, nguyện vọng ích kỷ muốn ăn cắp của công - báo hiệu sự ra đời của xã hội văn minh mới, xã hội có giai cấp”(12).
Sở hữu tư nhân - cơ sở kinh tế của sự hình thành giai cấp
Trong thời kỳ đầu của sở hữu bộ lạc, giai cấp chưa xuất hiện. Cơ cấu xã hội vào thời kỳ này chỉ giới hạn ở sự mở rộng của gia đình: tù trưởng của bộ lạc với những thành viên của bộ lạc. Giai cấp chỉ hình thành ở giai đoạn cuối của hình thức sở hữu bộ lạc và rõ nét nhất ở hình thức “sở hữu công xã và sở hữu nhà nước thời cổ”. Ở hình thức này, sở hữu tư nhân về động sản và sau này cả về bất động sản cũng đã hình thành và phát triển. Sự hình thành, phát triển sở hữu tư nhân về “những công cụ do mình chế tạo” (từ dùng của Ph.Ăngghen) hay về động sản và bất động sản, v.v.. đánh dấu sự phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động.
Ph.Ăngghen cho rằng, việc tách chăn nuôi khỏi trồng trọt là sự phân công xã hội lớn đầu tiên. Với sự phân công này, các bộ lạc du mục đã được hình thành và từng bước tách rời khỏi bộ phận còn lại của những người dã man. Từ sự phân công xã hội lớn đầu tiên này đã làm nảy sinh “sự phân chia lớn đầu tiên trong xã hội thành hai giai cấp: chủ nô và nô lệ, kẻ bóc lột và người bị bóc lột”(13).
Giai đoạn cao của thời đại dã man mang lại cho chúng ta một sự phân công lao động mới giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp, Ph.Ăngghen gọi đây là sự phân công lao động thứ hai. Thời đại văn minh còn bổ sung vào đó một sự phân công thứ ba, một sự phân công chỉ đặc trưng cho nó, có một ý nghĩa quyết định: sự phân công này nảy sinh ra một tầng lớp không còn tham gia sản xuất nữa, mà chỉ làm công việc trao đổi sản phẩm, đó là những thương nhân.
Do việc mua bán ruộng đất, sự phát triển hơn nữa của phân công lao động giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp, giữa thương nghiệp và hàng hải, khiến những thành viên của thị tộc, bào tộc và bộ lạc chẳng bao lâu đã phải sống lẫn lộn với nhau; và lãnh thổ của bào tộc và bộ lạc đã phải thu nhận những người tuy cũng là đồng bào, nhưng lại không thuộc các tập đoàn ấy, tức là những người lạ xét về nơi ở. Trong bối cảnh đó, thay vì một liên minh đơn thuần giữa những bộ lạc sống cạnh nhau, thì bây giờ họ nhập lại thành một bộ tộc duy nhất. Từ đây, “một thiết chế thứ hai là việc chia toàn thể nhân dân, không phân biệt thị tộc, bào tộc hay bộ lạc ra thành ba giai cấp: ép-pa-tri-đốp tức là quý tộc, ge-ô-mô-rốp tức là người làm ruộng và đê-mi-u-rgốp tức là người làm nghề thủ công và việc trao cho bọn quý tộc được độc quyền đảm nhận những chức vụ công cộng”(14).
Như vậy, cơ sở kinh tế làm xuất hiện giai cấp, đó là chế độ “sở hữu tư nhân”. Do vậy, muốn xóa bỏ giai cấp và áp bức giai cấp để tiến tới xã hội văn minh không có giai cấp nhất thiết phải xóa bỏ chế độ “sở hữu tư nhân” đặc biệt là “sở hữu tư nhân thuần túy”.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng: “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản… tức là cái sở hữu bóc lột lao động làm thuê, cái sở hữu chỉ có thể tăng thêm với điều kiện là phải sản xuất ra lao động làm thuê mới để lại bóc lột lao động làm thuê đó”(15). Hai ông còn nhấn mạnh: “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”(16) mà thôi.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, chế độ tư hữu tư sản hiện thời là biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia. Do đó, muốn xóa bỏ đối kháng giai cấp không thể không xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản. “Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu”(17). Hay như Ph.Ăngghen nói: “những người cộng sản hoàn toàn đúng khi đề ra việc thủ tiêu chế độ tư hữu thành yêu cầu chủ yếu của mình”(18).
Theo Ph.Ăngghen “xóa bỏ chế độ tư hữu” hay “thủ tiêu chế độ tư hữu thành yêu cầu chủ yếu”, “là điều hoàn toàn cần thiết”, là phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Phân tích mâu thuẫn giữa sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa, ông cho rằng: “những lực lượng sản xuất mạnh mẽ dễ tăng thêm đó đã vượt quá chế độ tư hữu và nhà tư sản đến mức là nó luôn luôn gây ra những sự chấn động hết sức mạnh mẽ trong chế độ xã hội. Cho nên, chỉ có ngày nay, việc thủ tiêu chế độ tư hữu mới trở thành không những là điều có thể thực hiện được, mà thậm chí còn là điều hoàn toàn cần thiết”(19). Thực tiễn lịch sử cho thấy rằng: “Từ hàng chục năm nay, lịch sử công nghiệp và thương nghiệp không phải là cái gì khác hơn là lịch sử cuộc nổi dậy của lực lượng sản xuất hiện đại chống lại những quan hệ sản xuất hiện đại, chống lại những quan hệ sở hữu đang quyết định sự tồn tại và sự thống trị của giai cấp tư sản […] giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản”(20).
“Xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản” là khẩu hiệu, là yêu cầu chủ yếu; là điều hoàn toàn cần thiết đối với giai cấp vô sản và người lao động. Tuy nhiên việc xóa bỏ này không thể chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn. Với câu hỏi: “Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không?”, Ph.Ăngghen đã trả lời một cách dứt khoát rằng: “Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”(21). Mọi tư tưởng chủ quan, nóng vội muốn thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức là trái với tinh thần trên đây của Ph.Ăngghen.
2. Ý nghĩa hiện thời của quan niệm “sở hữu”, “sở hữu tư nhân” của Ph.Ăngghen
Một là, khắc phục tư tưởng chủ quan, nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, đất nước hoàn toàn thống nhất, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những thành tựu, những thuận lợi hết sức cơ bản trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta cũng gặp không ít khó khăn, thách thức, nhất là về mặt kinh tế.
Do những thiếu sót trong việc đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế - xã hội; do chủ quan, nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, quá nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh mà không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối. Trong nhận thức cũng như hành động, “chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”(22) đã làm trầm trọng thêm tình trạng khó khăn cả về kinh tế lẫn xã hội.
Vận dụng quan niệm của Ph.Ăngghen về việc không thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức mà chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu; khắc phục tư tưởng chủ quan, nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế, nhất là việc muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh; với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, tại Đại hội lần thứ VI (tháng 12 năm 1986), Đảng ta đã chủ trương chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp với hai hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Kể từ đó đến nay nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đa hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân) với nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Tại Đại hội lần thứ XII, Đảng ta xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”(23).
Tại hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Đảng ta đã ra nghị quyết (số 10 - NQ/TW, ngày 3.6.2017) về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Nghị quyết (số 11-NQ/TW, ngày 3.6.2017) về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục khẳng định sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam và tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước cũng như vai trò động lực quan trọng của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Hai là, về xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản. Ph.Ăngghen cho rằng “xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản” là khẩu hiệu, là yêu cầu chủ yếu; là điều hoàn toàn cần thiết đối với giai cấp vô sản và người lao động. Không xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản thì không thể xóa bỏ được chế độ tư bản, không thể xóa bỏ được tình trạng người áp bức, bóc lột người. Quan niệm này của ông đến nay vẫn giữ nguyên giá trị.
Vấn đề đặt ra ở đây là không phải chúng ta xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, không phải chúng ta tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội. Cái mà chúng ta cần phải xóa bỏ là xóa bỏ “cái sở hữu bóc lột lao động làm thuê”; xóa bỏ quyền dùng sự chiếm hữu sản phẩm xã hội để nô dịch lao động của người khác. Còn chế độ sở hữu hay sự chiếm hữu sản phẩm xã hội không dùng để nô dịch lao động của người khác mà góp phần thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ xã hội thì chúng ta không xóa bỏ.
Vận dụng quan niệm về sự cần thiết phải xóa bỏ “chế độ sở hữu tư sản”, phải xóa bỏ “cái sở hữu bóc lột lao động làm thuê”; trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật; xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta chủ trương: Việt Nam “quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản” - “tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(24).
Một trong những chủ trương lớn - như là một sự cam kết của Nhà nước ta đã được luật hóa trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam trên cở sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và tuân thủ pháp luật của Việt Nam, bình đẳng và các bên cùng có lợi. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài; tạo điều kiện thuận lợi và quy định thủ tục đơn giản, nhanh chóng cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam”(25).
Gần 200 năm đã trôi qua, lịch sử nhân loại đã có biết bao sự thay đổi với những biến cố khôn lường nhưng quan niệm của Ph.Ăngghen về sở hữu, sở hữu tư nhân đến nay vẫn giữ nguyên giá trị.
Với tư cách là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, quan niệm của Ph.Ăngghen về “sở hữu”, “sở hữu tư nhân” nói riêng là tài sản tinh thần vô giá của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng chung của giai cấp vô sản toàn thế giới./.
_________________________________
(1), (2), (3), (4) C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. CTQG, T.3, tr.31, 31, 32, 34.
(5), (11), (15), (16), (17), (18), (19), (20), (21) C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Sđd, T.4, tr.468, 467, 615 - 616, 618, 616, 467, 468, 604 - 605, 469.
(6), (7), (8), (9), (10), (12), (13), (14) C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Sđd, T.21, tr.151, 236 - 237, 240, 238, 171, 150, 240, 167.
(22), (24) Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI,VII,VIII,IX), Nxb. CTQG, tr.22, 314 - 634.
(23) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, tr.103.
(25) Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 12.11.1996.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 2.2021
Bài liên quan
- Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
- Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
- Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
- Đôi nét về triết học ngoài mác-xít hiện đại
Xem nhiều
- 1 Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
- 2 Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- 3 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về học tập tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- 4 Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
- 5 Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
- 6 Một số phương tiện truyền thông mới trên nền tảng web 3.0 hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII
Ngày 25/11, tại Thủ đô Hà Nội, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã hoàn thành nhiều nội dung công việc. Với tinh thần làm việc khẩn trương, trách nhiệm cao, Trung ương đã thảo luận thống nhất các vấn đề quan trọng.
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, mặc dù không để lại những tác phẩm chuyên nghiên cứu về quản lý phát triển xã hội, nhưng qua các tác phẩm về kinh tế - chính trị, chính trị - xã hội của các ông, có thể rút ra những luận điểm cơ bản về quản lý phát triển xã hội. Các luận điểm này giúp các nhà quản lý xã hội thấy được bức tranh toàn cảnh xã hội một cách duy vật, cụ thể, với tính cách là kết quả hoạt động thực tiễn xã hội của con người.
Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
Sau khi hai tác phẩm kinh điển “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu và “Bàn về khế ước xã hội” của Rousseau chuyển bị về mặt lý luận cho Cách mạng dân chủ tư sản Pháp ra đời người ta thường nói đến thuộc tính pháp quyền gắn liền với nền dân chủ tư sản, người ta nói đến nhà nước pháp quyền tư sản, hệ thống dân chủ tư sản. Đến chủ nghĩa xã hội thì thuộc tính pháp quyền này lại ít được nhắc đến. Liệu chủ nghĩa xã hội có mang thuộc tính pháp quyền hay không và thuộc tính pháp quyền này khác với thuộc tính pháp quyên dân chủ tư sản như thế nào?
Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, lần đầu tiên vấn đề nhà nước được V.I.Lênin trình bày một cách có hệ thống. Giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm là đã làm sáng tỏ tính quy luật trong sự sinh thành, vận động và phát triển, đưa ra những dự báo khoa học về xu hướng và điều kiện về sự tự tiêu vong của nhà nước trong tiến trình tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị khoa học, cách mạng và tính thời sự. Trong tình hình hiện nay, nắm vững thực chất và vận dụng tư tưởng của tác phẩm là cơ sở vững chắc để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vừa là nhiệm vụ thường xuyên, vừa là công việc lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là nhiệm vụ khó khăn và phức tạp bởi “đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất của giai cấp vô sản”(1). Bài viết nghiên cứu tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch, phân tích ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc và vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin vào cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng ở nước ta hiện nay.
Bình luận