Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận trong thời kỳ đổi mới đất nước
Trong kho tàng di sản tinh thần to lớn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta, tư tưởng về dân vận và công tác dân vận giữ vị trí quan trọng. Việc nghiên cứu, học tập, phổ biến và khai thác những giá trị tư tưởng vô giá này không chỉ là tình cảm biết ơn của chúng ta đối với Người, mà trước hết còn là mệnh lệnh của cuộc sống, là đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiêp cách mạng nước ta, cả trong thời kỳ chưa có chính quyền lẫn thời kỳ Đảng cầm quyền; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân.
Để quán triệt và thực hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và công tác dân vận trong thời phát triển mới của đất nước đòi hỏi chúng ta phải giải quyết tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, phải nhận thức đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và công tác dân vận.
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử, kế thừa và phát triển những tinh hoa văn hoá nhân loại và những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân chủ Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đề ra và nhất quán thực hiện tư tưởng về dân vận và công tác dân vận. Chính vì vậy, cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thu được những thành tựu to lớn: Nước nhà thống nhất, giang sơn thu về một mối, cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đang từng bước hiện thực hoá mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Cách đây 56 năm, với bút danh XYZ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài báo Dân vận đăng trên báo Sự thật số ra ngày 15.10.1949. Đây là những nội dung cốt lõi về tư tưởng dân vận và công tác dân vận của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và công tác dân vận không chỉ có trong bài báo này mà nó thấm đượm trong toàn bộ hệ thống quan điểm của Người về cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong những tư tưởng, quan điểm về “dân”, “dân chủ” “dân vận” và “đoàn kết toàn dân”. Việc nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và công tác dân vận đòi hỏi phải có quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm toàn diện.
Cho tới nay chưa có ai đưa ra định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và công tác dân vận. Tuy nhiên, có thể khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và công tác dân vận như sau: Đó là hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc của Hồ Chí Minh về vấn đề dân vận trong chỉnh thể những tư tưởng về “dân”, “dân chủ” “dân vận” và “đoàn kết toàn dân”. Dân vận và công tác dân vận vừa là khoa học vừa là nghệ thuật về vận động tất cả lực lượng của mỗi người cũng như của cả mọi người góp thành lực lượng toàn dân hướng tới việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chung của mỗi tổ chức, của cả hệ thống chính trị và của dân tộc.
Nhận thức đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và công tác dân vận cũng có nghĩa là phải nhận thức đúng quan điểm Hồ Chí Minh về “dân” “dân chủ” “dân vận” “đoàn kết toàn dân”.
a. Tư tưởng về dân
Khi bàn về phạm trù “dân”, Lênin cho rằng: “Khi dùng danh từ nhân dân, Mác không thông qua danh từ ấy xoá mờ mất sự khác biệt về giai cấp; Mác đã gộp vào danh từ ấy những thành phần nhất định, có khả năng làm cách mạng đến cùng”(1).
Vậy là, theo Lênin, khi bàn về khái niệm dân, C. Mác không chỉ không đứng trên lập trường giai cấp công nhân để nhận diện mà hơn thế nữa, còn cho rằng khái niệm (danh từ) dân bao gồm tất cả các lực lượng, các giai cấp có khả năng làm cách mạng đến cùng (chủ ý nói giai cấp công nhân và nông dân).
Vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về dân vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xem quan niệm về dân trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh thường dùng những thuật ngữ: “người bản xứ”, “người bản xứ bị áp bức”, “người mất nước”, “người bị bóc lột”, “người cùng khổ”... Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh thường dùng những khái niệm “quốc dân”, “đồng bào”, “nhân dân”, “dân”. Đó là những khái niệm dùng để chỉ những người có cùng một quốc gia, cùng một nước, cùng một cội nguồn “cùng một tổ tiên”, bao gồm tất cả các giai tầng khác nhau và những người yêu nước khác nhau “Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử yêu nước. Đó là nền tảng của quốc dân”(2). Với quan niệm như vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nội hàm của khái niệm “dân” và đặc biệt thấy được vị thế, vai trò của dân trong xã hội - người nô lệ trong xã hội cũ; người tự do, người làm chủ trong xã hội mới.
Đối với tiến trình phát triển của lịch sử, đặc biệt là đối với cách mạng vô sản, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân “Không có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình, tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thành công”(3). Tiếp thu và vận dung sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò quần chúng nhân dân, Hồ Chí Minh cho rằng: dân là gốc của nước, của cách mạng: “ Dân là quí nhất, là quan trọng hơn hết. Dân là gốc của nước. Trong bầu trời không có gì quí bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân”(4); Người cũng khẳng định: “ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện: Thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hoà. Nhân hoà là thế nào? Nhân hoà là tất cả mọi người đều nhất trí. Nhân hoà quan trọng hơn hết”; cách mạng nếu biết dựa vào dân thì việc gì cũng xong “Dân chúng đồng lòng, việc gì làm cũng được; dân chúng không ủng hộ thì việc gì làm cũng không nên”; “Nước lấy dân làm gốc... Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”; có dân là có tất cả.
b. Tư tưởng về dân chủ
Từ tư tưởng về dân mà tập trung ở quan điểm dân là gốc của nước, Hồ Chí Minh đã đi đến quan niệm dân chủ, dân là chủ đất nước, chủ của xã hội và là chủ của chính mình.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ có nghĩa là dân là chủ, dân làm chủ, toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân; đã là nước dân chủ thì chủ thể của đất nước phải là dân “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân là người chủ”. Người cũng khẳng định: đã là người chủ của nước nhà thì quyền hành và lực lượng đều thuộc về dân, Người viết:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra
Nói tóm lại, quyền hành và và lực lượng đều ở nơi dân”(5).
Trong chế độ dân chủ, xét về bản chất, nhà nước là không có quyền, mà quyền lực của nhà nước là do dân uỷ thác mà có. Nhà nước được dân ủy quyền thay mặt dân, sử dụng quyền lực của dân để tổ chức và quản lý xã hội nhằm bảo đảm quyền lợi cho dân. “Trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân”(6) và “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”(7). Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, là người chủ và có quyền làm chủ thì dân cũng phải thực hiện nghĩa vụ của người chủ nước nhà. Dân có quyền được bảo đảm lợi ích thì đồng thời dân cũng có nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm của người làm chủ. Để hoàn thành trách nhiệm của người làm chủ, đòi hỏi nhân dân phải có ý thức, năng lực và hành vi làm chủ. Và, đương nhiên, Nhà nước phải tạo điều kiện và cơ hội để nhân dân hoàn thành nghĩa vụ của người chủ nước nhà.
Trong chế độ nhà nước (phân biệt với chế độ không có nhà nước - chế độ cộng sản nguyên thuỷ và cộng sản chủ nghĩa), dân chủ phải gắn liền với pháp luật, kỷ cương; quá trình dân chủ hoá cũng có nghĩa là quá trình pháp chế hoá. Điều đó cũng có nghĩa là quyền lực và lợi ích của dân đều được luật pháp thừa nhận và bảo vệ, mọi hành vi vi phạm quyền lợi của dân đều được xét xử theo pháp luật. Có như vậy, dân chủ mới có cơ sở phát triển lành mạnh, không bị biến dạng, lệch lạc dưới những hình thức khác nhau như dân chủ hình thức hoặc dân chủ cực đoan vô chính phủ...
Để quyền lực của nhân dân được thực thi trên thực tế, Hồ Chí Minh yêu cầu Nhà nước phải hoàn thành trách nhiệm của người được dân uỷ quyền, phải sử dụng quyền của dân cho đúng mục đích, không lạm quyền, lộng quyền, độc đoán chuyên quyền; Nhà nước phải thực sự là người đầy tớ trung thành của dân “Chính phủ của ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành, tận tuỵ của nhân dân”(8). Với Người, khi ở cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh cũng luôn tâm niệm là do dân uỷ thác, luôn luôn một lòng, một dạ phụng sự nhân dân. Tháng 1 năm 1946, khi trả lời các nhà báo, Người nói “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh, phú quí chút nào. Bây giờ phải gánh vác Chủ tịch là do đồng bào uỷ thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui thì tôi rất vui lòng lui”(9). Tình yêu thương của Người đối với dân thật bao la và đầy trách nhiệm. Trước lúc đi xa, trong di chúc lịch sử, Người còn để lại muôn vàn tình thương yêu đối với dân với nước “Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng...”, “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
c. Tư tưởng về dân vận
Xuất phát từ cơ sở nhận thức khoa học về dân và dân chủ “dân là gốc của nước, của cách mạng”; “Dân là chủ của Nước nhà”; “Cách mạng là việc chung của dân chúng, chứ không phải là việc của một hai người”, “Lực lượng của dân rất to” Hồ Chí Minh đi tới khẳng định: dân vận là rất quan trọng, dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công.
Theo người, dân vận có những nội dung sau:
Một là: Dân vận là gì? “ Dân vận là động viên tất cả các lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hiện công việc chính phủ và đoàn thể giao cho”(10).
Trong định nghĩa ngắn gọn này bao gồm ba nội dung cơ bản sau:
- Dân vận là vận động, nghĩa là bao gồm tất cả các hoạt động từ việc giải thích cho dân hiểu về một nhiệm vụ nào đó, đến những hoạt động tổ chức cho mỗi người dân cũng như toàn thể dân chúng hành động nhằm khơi dậy, động viên, khích lệ, phát huy mọi tiềm năng và lực lượng vốn có của dân chúng.
- Dân vận là vận động toàn dân chứ không phải là vận động một ít người để thành lực lượng toàn dân, tạo sự thống nhất, đồng thuận của toàn dân.
- Dân vận là vận động lực lượng của toàn dân để thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ và các đoàn thể, nghĩa là thực hiện nhiệm vụ chung của quốc gia dân tộc hoặc nhiệm cụ thể của các đoàn thể nhân dân.
Hai là, Qui trình tiến hành dân vận?
Qui trình thực hiện dân vận có bốn bước chủ yếu:
1- Dân vận trước hết là tìm mọi cách (kể cả báo chí, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị) giải thích cho mỗi một người dân hiểu rằng:Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Nhận thức đúng là mở đầu cho hành động đúng, bởi vậy, làm cho dân hiểu, dân biết là vô cùng quan trọng góp phần tạo điều kiện cho hành động tự giác, sáng tạo của quần chúng nhân dân;
2- Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra hành động;
3- Trong khi dân thi hành nhiệm vụ chung phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân;
4- Khi thi hành xong phải cùng với dân tổng kết tìm ra những điểm yếu để khắc phục, điểm mạnh để phát huy, đồng thời và quan trọng hơn là để rút ra những bài học kinh nghiệm để làm tốt hơn nữa công tác dân vận.
Từ qui trình này Đảng ta đã tổng kết thành phương châm công tác dân vận là: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Ba là, ai phụ trách dân vận?
Theo Người, đó là tất cả cán bộ chính quyền và cán bộ đoàn thể địa phương và tất cả các hội viên của các tổ chức nhân dân, nghĩa là toàn thể hệ thống chính trị, là các tổ chức xã hội nghề nghiệp và mọi người dân. Mỗi loại cán bộ có nhiệm vụ dân vận riêng nhưng tựu chung là để tổ chức toàn thể nhân dân thực hiện nhiệm vụ chung của Chính phủ và của đoàn thể.
Bốn là, Dân vận phải thế nào?
- Trước hết là đối với người làm công tác dân vận phải: óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói tay làm. Nghĩa là người làm dân vận phải nói đi đôi với làm, phải nêu gương trước dân chúng.
- Đối với công tác tổ chức dân vận, phải nhận thức đúng về vị trí, vai trò của công tác dân vận; phải kiện toàn bộ máy làm công tác dân vận, hoàn thiện đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận chuyên trách, tránh tình trạng coi khinh dân vận rồi không chú ý kiện toàn bộ máy làm dân vận và không xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận chuyên trách ngang tầm với nhiệm vụ.
d. Về tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc
Công tác dân vận rất quan trọng. Theo Người dân vận không có mục đích tự thân, mà là để vận động được tất cả lực lượng của mỗi người dân góp thành lực lượng toàn dân - khối đoàn kết toàn dân.
Xây dựng khối đoàn kết toàn dân vừa là nhiệm vụ quan trọng vừa là mục tiêu của dân vận. Dân vận trước hết là vận động mọi lực lượng của mỗi người, của toàn dân để góp thành lực lượng toàn dân, đoàn kết toàn dân, sau đó để thực hiện nhiệm vụ chính trị của dân tộc.
Trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn của cách mạng, có thể và cần thiết phải có phương thức tập hợp quần chúng cho phù hợp, nhưng đại đoàn kết toàn dân phải luôn luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”; “Đoàn kết là là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”(11); “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”(12). Đoàn kết là điểm mẹ “Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”(13);
Đoàn kết toàn dân tộc, không chỉ là nhiệm vụ mà còn là mục tiêu của cách mạng, đòi hỏi công tác dân vân, trước hết là công tác tuyên truyền phải hướng tới “Trước cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên truyền là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là, đoàn kết, Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên truyền, huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”(14).
Theo Hồ Chí Minh Đoàn kết dân tộc, trước hết có nghĩa là đoàn kết toàn dân “Đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”(15); đoàn kết dân tộc phải trở thành chiến lược cách mạng, khẩu hiệu hành động của toàn Đảng toàn dân, thành lực lượng vật chất mà tổ chức thể hiện khối đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất; Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc; đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế.
Thứ hai, Quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo tiến hành công tác dân vận
Một là, Công tác dân vận phải xuất phát từ lợi ích của quần chúng nhân dân, thực hiện và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng không có lợi ích nào khác “Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”(16); Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên, các tổ chức Đảng và chính quyền phải thực hành phương châm:
“Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm,
Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh”(17).
Trước lúc đi xa Người còn không quên căn dặn: “Việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ mà Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”(18). Trong bất kỳ thời kỳ nào vẫn là việc của dân, do dân và vì dân.
Hai là, thực hành dân chủ là phương thức cơ bản của công tác dân vận.
Với qui trình bốn điểm về dân vận và công tác dân vận được Hồ Chí Minh đề ra: giải thích cho dân hiểu, bàn với dân, tổ chức để dân thi hành, cùng dân kiểm thảo lại công việc, được Đảng ta tổng kết thành phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đã nói lên vai trò của việc thực hành dân chủ trong công tác dân vận. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Thực hành dân chủ là chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi khó khăn, “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
Ba là, dân vận phải hướng tới mục tiêu đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, xây dựng nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết là thành công:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”(19).
Bởi vậy dân vận phải hướng tới mục tiêu đoàn kết dân tộc trên cơ sở có sự “đồng tâm”, “đồng sức”, “đồng lòng”, “đồng thuận” “đồng hướng” của toàn dân. Từ nhiệm vụ và mục tiêu đoàn kết, dân vận hướng toàn dân tộc vào thực hiện mục tiêu lý tưởng: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội .
Bốn là, dân vận và công tác dân vận là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước thông qua Mặt trận dân tộc thống nhất.
Là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có công tác dân vận. Dân là chủ và thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng nhà nước, trong khuôn khổ Hiến pháp pháp luật. Hồ Chí Minh đã nói “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường”(20). Là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn dân, song công tác dân vận phải được tiến hành thông qua Mặt trận dân tộc thống nhất, tổ chức thể hiện khối đoàn kết dân tộc. Tuỳ theo các thời kỳ khác nhau của cách mạng, Mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những tên gọi khác nhau: Hội phản đế đồng minh(1930) Mặt trận Việt Minh (1941), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955, 1976)... nhưng thực chất chỉ là một tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức, các cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Trên cơ sở thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc và lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động, Mặt trận dân tộc thống nhất thực sự là tổ chức mà qua đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo, Nhà nước thực hiện sự quản lý, nhân dân và cả hệ thống chính trị thực hành công tác dân vận.
Thứ ba, những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu làm tốt công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới
Một là, Phải tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực về nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, của tổ chức và mỗi người dân, trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và công tác dân vận; nhất là các quan điểm trong Nghị quyết Trung ương 7 khoá IX về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, “Về công tác dân tộc, công tác tôn giáo”. Cần thiết phải nhắc lại năm chủ trương và giải pháp lớn được Đảng ta đề cập trong Nghị quyết Trung ương 7 khoá IX “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” để quán triệt : Xây dựng những định hướng chính sách nhằm tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc; Phát huy mạnh mẽ vai trò chính quyền nhà nước trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân; Tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước; Xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để Đảng thật sự là hạt nhân lãnh đạo khối đoàn kết toàn dân tộc. Quán triệt tinh thần Nghị quyết của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và công tác dân vận đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức của các cấp, các ngành phải có chuyển biến nhận thức sâu sắc về vai trò, mục đích, qui trình, nội dung, phương thức tiến hành công tác dân vận trong giai đoạn mới làm cơ sở cho công tác dân vận.
Hai là, thực hiện tốt Qui chế dân chủ ở cơ sở, sáng tạo và thực hiện có hiệu quả những hình thức, phương pháp dân vận phù hợp với mỗi địa phương và từng cơ sở.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Phát huy hơn nữa việc thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở, theo phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, sáng tạo, tìm tòi những hình thức, phương pháp dân vận thích hợp là yêu cầu của công tác dân vận trong thời kỳ mới; đồng thời phải gắn công tác dân vận với việc thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, cơ sở. Có hình thức, phương pháp thực hành công tác dân vận, theo Hồ Chí Minh tức là dân vận phải khéo: Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công.
Ba là, Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, đồng thời với việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân dận ở các cấp, các ngành.
Công tác dân vận là công việc của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, song tổ chức trực tiếp làm công tác dân vận đóng vai trò rất quan trọng. Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo: “Khuyết điểm to ở nhiều nơi xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt, mà không vận được cũng mặc... Đó là sai lầm rất to, rất có hại”(21). Đã đến lúc cần quan tâm kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân vận từ Trung ương đến cơ sở trên cơ sở xác định đúng chức năng, nhiệm vụ và tạo điều kiện cả về vật chất, tinh thần và pháp lý cho các tổ chức làm công tác dân vận hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đồng thời với việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cần xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận vừa “có tâm” vừa đủ “tầm”. Cán bộ làm công tác dân vận theo Hồ Chí Minh phải có tác phong: “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói tay làm”(22). Yêu cầu óc nghĩ đòi hỏi người làm công tác dân vận phải có trình độ, có năng lực làm công tác dân vận. Yêu cầu “mắt trông, tai nghe, chân đi” đòi hỏi người cán bộ phải sát cơ sở, sát thực tế, đến với dân, phải “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Phong cách này chính là sự thể hiện phương châm của Hồ Chí Minh : “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “Cán bộ vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ, là công bộc của dân”.
Bốn là, Đẩy mạnh hơn nữa phong trào thi đua yêu nước, toàn dân đoàn kết xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Hồ Chí Minh đã từng nói: Thi đua là yêu nước, yêu nước phải thi đua. Thông qua phong trào thi đua yêu nước, nhiều hình thức, phương pháp dân vận được áp dụng có hiệu quả vào thực tế; nhiều hình thức, phương pháp mới nẩy sinh; nhiều kinh nghiệm mới được tổng kết.
Trong mỗi thời kỳ phát triển của cách mạng, Đảng ta luôn phát động phong trào thi đua yêu nước. Mặc dù với những hình thức và nội dung có khác nhau, song mục đích chung vẫn là khơi dậy và phát huy tất cả các lực lượng của mỗi người và của mọi người tạo thành lực lượng toàn dân, vượt qua những khó khăn, thử thách để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Trước yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để dân vận, công tác dân vận hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình - xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, cần phải tổ chức tốt và thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, để nhà nhà thi đua, người người thi đua, ngành ngành thi đua, tạo động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa./.
________________________
(1) Lênin Toàn tập (1979), Nxb. Tiến bộ, T.11, tr.159.
(2) Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb. CTQG, Hà Nội, T.7, tr.219.
(3) Lênin Toàn tập (1979), Nxb. Tiến bộ, T.39, tr.251.
(4) Hồ Chí Minh Toàn tập (1996), Nxb. CTQG, Hà Nội. T.8, tr.276.
(5) Sđd, T.2, tr.270.
(6) Sđd, T.7 tr.217.
(7) Sđd, T.5, Hà Nội, 2000, tr.60.
(8) Sđd, Hà Nội 2000, T.7, tr.361-362.
(9) Sđd, T.4, tr.161.
(10) Sđd, Hà Nội, 1995, T.5, tr.698.
(11), (12) Sđd, T.11, tr.22, tr.154.
(13) Sđd, T.8, tr.392.
(14) Sđd, T.11, tr.130.
(15) Sđd, T.7, tr.438.
(16) Sđd, T.10, tr.467.
(17) Sđd T.4, tr.56-57.
(18) Sđd, T.12, tr.503.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền tháng 1,2 năm 2006
Bài liên quan
- Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
- Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
- Tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp cận từ góc độ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta đã phải đương đầu với nạn “thù trong, giặc ngoài”, ở cả 2 miền Nam, Bắc vấn đề về xung đột dân tộc trở thành tâm điểm có nguy cơ gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của nhà nước cách mạng non trẻ. Với trí tuệ uyên bác, sự lãnh đạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vấn đề tưởng chừng hết sức phức tạp ấy lại được Người khéo léo giải quyết thành công, đem lại bài học có giá trị cách mạng sâu sắc về công tác dân tộc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta đã phải đương đầu với nạn “thù trong, giặc ngoài”, ở cả 2 miền Nam, Bắc vấn đề về xung đột dân tộc trở thành tâm điểm có nguy cơ gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của nhà nước cách mạng non trẻ. Với trí tuệ uyên bác, sự lãnh đạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vấn đề tưởng chừng hết sức phức tạp ấy lại được Người khéo léo giải quyết thành công, đem lại bài học có giá trị cách mạng sâu sắc về công tác dân tộc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất, Người đã để lại di sản quý báu về tư tưởng, đạo đức, phong cách cho Đảng và Nhân dân ta. Di sản Hồ Chí Minh bao quát rộng lớn các vấn đề của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến lời dạy của Người trong Thư gửi “Quân nhân học báo” tháng 4/1949: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”(1) là vấn đề có ý nghĩa thời sự đối với việc nghiên cứu, học tập của cán bộ, đảng viên nói chung, giảng viên làm công tác giảng dạy lý luận chính trị nói riêng hiện nay.
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử đặc biệt, có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn, hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc về xây dựng Đảng cầm quyền, đặc biệt là vấn đề thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Trải qua 55 năm, di huấn của Người về vấn đề này vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và thời đại.
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Suy ngẫm tư tưởng Hồ Chí Minh về “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” và nghiên cứu Điều 3 Quy định số 144 để thấy được bước phát triển của Đảng về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.
Bình luận