Truyền thông xã hội và sự tác động của nó đến đào tạo, bồi dưỡng báo chí ở Việt Nam
1. Truyền thông xã hội
Truyền thông xã hội được hiểu tốt nhất như là một nhóm các kiểu mới của truyền thông trực tuyến, bao gồm các đặc điểm sau:
Sự tham gia - truyền thông xã hội khuyến khích đóng góp và phản hồi từ tất cả những ai quan tâm. Nó làm mờ ranh giới giữa truyền thông và khán giả.
Tính mở - hầu hết các dịch vụ truyền thông xã hội cho phép nhận thông tin phản hồi và tham gia của người sử dụng, do vậy khuyến khích việc bỏ phiếu, nêu ý kiến và chia sẻ thông tin. Rất ít khi có các rào cản đối với việc tiếp cận và sử dụng nội dung - nội dung được bảo vệ bằng mật khẩu hầu như rất hiếm thấy.
Tính “hội thoại” - trong khi các loại hình truyền thông truyền thống thường mang tính “quảng bá” (nội dung được truyền tải đến khán giả) thì truyền thông xã hội lại mang tính hai chiều.
Tính cộng đồng - truyền thông xã hội cho phép hình thành các cộng đồng một cách nhanh chóng và giao tiếp giữa các thành viên trong cộng đồng một cách hiệu quả. Các cộng đồng chia sẻ mối quan tâm chung, chẳng hạn như tình yêu đối với nhiếp ảnh, một vấn đề chính trị hay một chương trình truyền hình yêu thích.
Tính kết nối - hầu hết các loại truyền thông xã hội phát triển mạnh nhờ tính kết nối của chúng, cụ thể là việc liên kết đến các trang web, tài nguyên và con người khác(1).
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra ít nhất 7 hình thức của truyền thông xã hội: Các trang web mạng xã hội; Blog; Wiki; Podcast; Diễn đàn; Cộng đồng nội dung; Tiểu blog.
Trang web mạng xã hội (SNS) là từ viết tắt của Social Networking Service, các dịch vụ trên nền web là phương tiện trực tuyến để tạo mối quan hệ với những người khác có cùng sở thích, văn hóa, hoàn cảnh hoặc một mối quan hệ thực sự. Người dùng dịch vụ mạng xã hội tạo một hồ sơ với thông tin cá nhân, hình ảnh,… và có những kết nối với các hồ sơ khác. Những người dùng này sử dụng kết nối của họ để phát triển mối quan hệ thông qua chia sẻ, gửi email, tin nhắn và các bình luận. Các dịch vụ mạng xã hội cũng có thể được gọi là “Social Networking Site – trang mạng xã hội” hay đơn giản là “Social Media - phương tiện truyền thông xã hội” như Facebook, Instagram, Twitter, Pinterest,…
Các trang web SNS cho phép “đại diện kỹ thuật số cho các kết nối của chúng ta với người dùng khác - có nghĩa là chúng ta có thể sử dụng các trang web này để mô hình mạng các mối quan hệ xã hội của chúng ta bằng cách yêu cầu và chấp nhận “bạn bè” hay “các mối liên lạc”(2). Tính đến thời điểm hiện nay thì Facebook và Renren là những SNS hàng đầu. Điểm thu hút chính của Facebook có thể là việc làm xuất hiện “trở lại sự giao tiếp thông tin giữa những người láng giềng” trong một xã hội thông tin toàn cầu.
Mô hình kinh doanh SNS dựa trên quảng cáo trực tuyến, thông qua quảng cáo được nhắm mục tiêu sử dụng thông tin cá nhân, thói quen tìm kiếm, vị trí hoặc dữ liệu khác của cá nhân hoặc bằng cách bán thông tin cá nhân cho bên thứ ba. Sự phát triển của các công nghệ di động, như điện thoại thông minh và máy tính bảng, đã giúp tăng trưởng việc chấp nhận và sử dụng SNS.
Blog, viết tắt của “web logs” (nhật ký trên web), là các trang web “chứa đựng những kinh nghiệm, quan sát, ý kiến v.v.. mang tính cá nhân của tác giả hay một nhóm tác giả và thường có các hình ảnh và liên kết đến các trang web khác”(3). Blog cung cấp cho mọi người cơ hội để đưa ra quan điểm riêng của mình cho cả thế giới đọc và nhận các ý kiến phản hồi. Có ba loại blog cơ bản: (1) blog cá nhân - nơi các blogger kể lại cuộc sống thực của mình; (2) blog lọc - nơi mà các blogger sàng lọc các trang web cho người đọc; và (3) blog theo chủ đề(4).
Hầu hết mọi người biết wiki vì Wikipedia. Wikipedia mang lại cho wiki những thứ giống như Facebook mang lại cho mạng xã hội. Một wiki “là một phần của phần mềm máy chủ, cho phép người dùng tự do tạo lập và chỉnh sửa nội dung trang web sử dụng bất kỳ trình duyệt Web nào”(5). Đây là nền tảng mà Wikipedia sử dụng bởi “Một cộng tác chỉnh sửa, đa ngôn ngữ, bách khoa toàn thư miễn phí Internet”(6).
Wikipedia được hợp viết bởi các tình nguyện viên trên khắp thế giới! Sự khai thác khổng lồ này đã được thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản tại trung tâm của tất cả các wiki, bao gồm: (1) Mở và chỉnh sửa ngay lập tức; (2) Ghi lại toàn bộ chỉnh sửa; (3) Cú pháp chỉnh sửa đặc biệt được coi là dễ học hơn đáng kể so với HTML; (4) Các trang liên kết - tất cả các trang trên Wikipedia được liên kết đến các trang Wikipedia khác để tạo thành một mạng lưới siêu văn bản hoặc các trang liên kết với nhau; (5) Nội dung đa phương tiện; (6) Các tiêu chuẩn nội dung - Wikipedia không lấy tất cả mọi thứ; tất cả các bài viết phải là bách khoa, trung lập, và kiểm chứng được; (7) Nội dung đưa ra thảo luận - mỗi trang wiki và bài viết đều kèm theo thảo luận liên quan hoặc trang thảo luận. Những biên tập viên quan tâm có thể thảo luận về bất kỳ thay đổi nào liên quan đến bài viết; (8) Những cải tiến tăng lên của các bài viết; (9) Hợp tác ra quyết định; (10) Cộng đồng - Một cộng đồng tình nguyện viên phức hợp và tận tụy đằng sau Wikipedia, phát triển nội dung, chính sách và thực tiễn; (11) Nội dung đa ngôn ngữ - các bài viết không chỉ bằng tiếng Anh; (12) Hoàn toàn tự do - hoàn toàn không mất phí tổn nào để tiếp cận nội dung trên Wikipedia(7).
Hay nói cách khác “wiki là loại trang mạng cho phép một số hoặc tất cả những người xem trang mạng được quyền thêm, xóa, thay đổi các trang và nội dung một cách rất nhanh chóng và dễ dàng”.
Podcast là “một loại phương tiện truyền thông kỹ thuật số bao gồm một loạt các hình thức như đài phát thanh, video, PDF, hoặc các tập tin ePub đăng ký và tải về thông qua việc cung cấp thông tin trang web và truyền trực tuyến tới một máy tính hoặc thiết bị di động”(8) Podcasting cho phép một cá nhân có khả năng thiết lập đài phát thanh của riêng mình. Nó được coi là một “công nghệ đột phá” vì nó “cho phép dùng những cách thức mới và khác nhau để làm những nhiệm vụ quen thuộc và trong quá trình này, nó có thể đe dọa ngành công nghiệp truyền thống”(9).
Diễn đàn là “các trang web thảo luận trực tuyến, nơi mọi người có thể duy trì cuộc hội thoại dưới hình thức đăng các tin nhắn”(10). Đó là “sự phân cấp hoặc hình cây giống như trong cấu trúc: một diễn đàn có thể chứa một số chuyên mục con, mỗi chyên mục trong số đó có thể có một số chủ đề”. Các diễn đàn có nguồn gốc từ các kết nối từ xa với hệ thống các bảng thông báo của những năm 1970. Nhưng nó là một hình thức truyền thông xã hội bởi vì, từ góc độ công nghệ, diễn đàn “là các ứng dụng web quản lý các nội dung do người dùng tạo ra”.
Cộng đồng nội dung được “xác định bởi một nhóm người thống nhất trực tuyến xung quanh một đối tượng được quan tâm chung. Các đối tượng có thể là về bất cứ điều gì, ví dụ như: hình ảnh, video, liên kết, chủ đề hoặc vấn đề và thường được tổ chức và phát triển theo cách bao gồm các yếu tố mạng xã hội hoặc làm cho chúng trở thành trung tâm của nội dung”(11). YouTube và Flicker là các cộng đồng nội dung phổ biến nhất. YouTube đã trở thành trang web chia sẻ video lớn nhất thế giới.
Tiểu blog (Microblogging) “là việc tiến hành đăng những mẩu nhỏ của nội dung kỹ thuật số - chúng có thể là văn bản, hình ảnh, liên kết, đoạn video ngắn, hoặc các loại hình truyền thông khác - trên Internet”(12). Twitter và Sina Weibo là đi tiên phong trong lĩnh vực này.
2. Tác động của truyền thông xã hội đến đào tạo và bồi dưỡng báo chí
Nhà báo đa năng là người làm báo có vốn kiến thức toàn diện; kỹ năng nghiệp vụ đa dạng (gồm viết, phỏng vấn, chụp ảnh, quay phim, biên tập, sử dụng công nghệ truyền thông hiện đại); tư duy sáng tạo kết hợp với năng lực nhạy bén: “học đi đôi với hành”; thích nghi với hoạt động quản lý kinh doanh và truyền thông đa phương tiện.
Công nghệ truyền thông xã hội như một công cụ mạnh mẽ để tăng cường vào hoạt động đào tạo báo chí ở Việt Nam. Truyền thông xã hội có thể tác động tích cực trong hoạt động đào tạo và bồi dưỡng báo chí:
Truyền thông xã hội có thể cung cấp động lực cho các phương pháp tiếp cận và hợp tác dựa trên các câu hỏi.
Nó cũng có thể cung cấp một môi trường dưới nhiều hình thức hỗ trợ bằng cách cho phép người học kết nối, tương tác và chia sẻ ý tưởng một cách linh động.
Wiki và các công cụ chỉnh sửa, hợp tác viết có thể có những mở rộng hữu ích để tiếp cận văn bản thông thường. Chúng cho phép chia sẻ và công bố các giả tưởng được sản xuất dựa trên kết quả của các hoạt động học tập, thông tin phản hồi từ đồng nghiệp. Bằng cách xuất bản và trình bày công việc của chúng cho một đối tượng rộng, người học được hưởng lợi từ các cơ hội để thích hợp với những ý tưởng mới và biến đổi sự hiểu biết của họ thông qua sự phản ánh.
SNS và blog là các không gian tương tác xã hội nơi người học có thể lựa chọn để khám phá các khía cạnh của bản sắc riêng của họ, cũng như tham gia vào các thể hiện cá nhân, đối thoại và chia sẻ kiến thức với những người khác.
Podcast là lựa chọn thay thế tuyệt vời cho những bài học và nội dung nghiên cứu được cung cấp cho người học cần hỗ trợ, mở rộng hoặc sửa chữa. Người học có thể tạo ra Podcast của riêng họ để chia sẻ kinh nghiệm học tập với các sinh viên khác từ các trường khác. Giáo viên có thể ghi lại âm thanh Podcast để cung cấp bổ sung và sửa đổi các tài liệu cho sinh viên để tải về và ôn tập tại một thời điểm đó phù hợp nhất với họ. Podcast rất có lợi cho những học viên học qua thính giác và giúp họ trong việc học của họ. Tạo Podcast cho phép sinh viên phát triển một số kỹ năng quan trọng: chẳng hạn như nghiên cứu, viết, trình bày, giải quyết vấn đề, quản lý thời gian, rèn tính tập trung và cải thiện vốn từ vựng của họ.
Twitter có thể được sử dụng trong môi trường học thuật để thúc đẩy sự tương tác về một chủ đề nhất định. Twitter có thể là một nền tảng khả thi cho siêu nhận thức, buộc người dùng phải ngắn gọn và chính xác - một kỹ năng quan trọng trong suy nghĩ rõ ràng và giao tiếp hiệu quả.
Classroom Salon, một công cụ được phát triển bởi Alex Cheek, Ananda Gunawardena và David Kaufer tại Đại học Carnegie Mellon, là một công cụ hợp tác xã hội trực tuyến, có thể được sử dụng cho các bước sau:
Khuyến khích đọc sách. Giáo viên có thể gửi tài liệu và học sinh cần phải đọc và chú thích.
Thực hiện một lớp học đảo ngược. Một lớp học đảo ngược cho phép giáo viên ghi lại trực tiếp bài học của họ, gửi và chia sẻ chúng thông qua Classroom Salon và những ý kiến, các câu hỏi.
Sinh viên có thể gửi bài viết trong khi giáo viên hoặc sinh viên cũng có thể đưa ra các ý kiến để cải thiện bài viết.
Công cụ này đã được sử dụng bởi hơn hàng chục ngàn giáo viên và sinh viên trên toàn thế giới. Classroom Salon cũng có tính năng cho phép giáo viên hướng dẫn theo dõi những phân tích về người học để đánh giá cả sự tham gia của sinh viên và hiệu quả cá nhân.
Open Study là ví dụ về một cộng đồng học tập xã hội trực tuyến, cho phép sinh viên kết nối với các sinh viên khác học tập những điều tương tự cùng một lúc. Các tính năng chính được tập trung vào việc cung cấp sự tương tác cho phép một người sử dụng: (1) biết ai đang trực tuyến; (2) hỏi câu hỏi; (3) tham gia thảo luận; (4) nghiên cứu với nhau; (5) cảm ơn một người sử dụng đã giúp đỡ mình; (6) trò chuyện với những người dùng khác trong thời gian thực.
Công tác đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí ngày nay đã từng bước phá vỡ mô hình đào tạo truyền thống. Nhu cầu của truyền thông xã hội đòi hỏi người được tuyển dụng có kiến thức nền tảng vững chắc đồng thời phải có kỹ năng chuyên sâu trong một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp. Bên cạnh các khóa học đào tạo chuyên sâu về một lĩnh vực truyền thông như báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử…, các khóa đào tạo “kép”, kết hợp báo chí truyền thông với một ngành khoa học xã hội khác như xã hội, kinh tế, luật… Do tác động mạnh mẽ của truyền thông xã hội, việc kết hợp giữa đào tạo trong nhà trường và bồi dưỡng nghiệp vụ tại các cơ quan báo chí đóng vai trò hết sức quan trọng, bởi nó có thể giúp các nhà báo được đào tạo lại, thích ứng với những công nghệ làm báo mới.
Truyền thông xã hội đang phát triển mạnh mẽ từng ngày, từng giờ trong kỷ nguyên kỹ thuật số. Chính vì vậy, yêu cầu công tác đào tạo nhà báo cần phải cải tiến một cách mạnh mẽ, vừa khoa học, nhưng phải mang tính hệ thống,... để thích ứng với nhu cầu của các phương tiện truyền thông đang trong quá trình đổi mới, từ đó đào tạo ra đội ngũ nhà báo đa năng, chuyên nghiệp, phù hợp với nhu cầu của các phương tiện truyền thông hiện nay./.
____________________
(1) Anthony Mayfield, Truyền thông xã hội là gì (iCrossing, 2008)
(2) Nicole B. Ellison, Cliff Lampe và Charles Steinfield, “Trang web mạng xã hội và xã hội: Xu hướng hiện tại và khả năng trong tương lai”, tương tác (tháng1-tháng 2 năm 2009), tr6.
(3) http://wiki.org/wiki.cgi?WhatIsWiki.
(4) Jill Walker Rettberg, blog (Cambridge, Vương quốc Anh, Polity, 2008), tr.9-17.
(5) http://dictionary.reference.com/browse/blog.
(6) http://en.wikipedia.org/wiki/Wikipedia.
(7)http://ia600603.us.archive.org/31/items/HowWikipediaWorks/HowWikipediaWorks.pdf.
(8) http://en.wikipedia.org/wiki/Podcast.
(9)http://llt.msu.edu/vol9num3/emerging/default.html
(10) http://en.wikipedia.org/wiki/Internet_forum.
(11)http://technologyinprevention.wikispaces.com/Content+Communities.
(12) http://www.educause.edu/library/resources/7-things-you-should-know-about-microblogging.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông tháng 05.2021
Bài liên quan
- Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
- Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
- Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
- Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
- Một số giải pháp cải thiện hoạt động khai thác, xuất bản sách tinh gọn tại Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
Trong 33 năm làm việc ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền, tôi có 30 năm gắn bó với Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, cho dù tôi không phải trực tiếp biên chế công tác tại đây.
Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
Trong bối cảnh du lịch ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, việc phát triển du lịch bền vững tại Khánh Hòa đòi hỏi sự tham gia chủ động của cả chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng địa phương (CĐĐP). Quản trị truyền thông không chỉ góp phần xây dựng hình ảnh Khánh Hòa là một điểm đến bền vững, mà còn trở thành công cụ quan trọng trong việc kết nối các bên liên quan, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường và bảo tồn văn hóa bản địa. Bài báo khoa học này tập trung hệ thống hóa và đánh giá tiềm năng du lịch cộng đồng (DLCĐ) tại tỉnh Khánh Hòa, đồng thời đề xuất các giải pháp quản trị truyền thông hiệu quả nhằm phát triển DLCĐ một cách đồng bộ, giúp du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và đúng định hướng chiến lược, trong đó DLCĐ đóng vai trò cốt lõi. Kết quả nghiên cứu được thu thập thông qua các phương pháp như: phỏng vấn sâu; phương pháp khảo sát; phân tích, tổng hợp và so sánh dữ liệu; xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS.22.0.
Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
Cuộc cách mạng 4.0 đang tạo ra sự thay đổi sâu rộng trong ngành truyền hình với sự xuất hiện của truyền hình đa nền tảng. Khác với truyền hình truyền thống, truyền hình đa nền tảng đã và đang định hình lại cách thức tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung thông qua các đặc trưng nổi bật như tính thời sự, khả năng lan truyền thông tin nhanh chóng, tính đa dạng và tương tác cao, quản lý và lưu trữ hiệu quả. Vận hành một mô hình sản xuất truyền hình đa nền tảng cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, trong đó nhấn mạnh đến các nguyên tắc về thông tin chính xác, kết hợp sản xuất nội dung với công nghệ mới, phát triển đa dạng các nền tảng...
Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
Bài viết nghiên cứu về tác động của truyền thông xã hội đối với hoạt động báo chí hiện nay, tập trung vào sự thay đổi trong hoạt động sản xuất, phân phối tin tức và cấu trúc nội dung báo chí. Truyền thông xã hội đã trở thành một nguồn tin phong phú, đa chiều và nhanh chóng, làm thay đổi đáng kể cách thức thu thập và truyền tải thông tin. Tuy nhiên, tính xác thực của nguồn tin mạng xã hội vẫn là một thách thức, đòi hỏi báo chí phải chú trọng vào việc kiểm chứng và phản hồi thông tin một cách chính xác. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất báo chí cần phát triển nội dung chất lượng cao, tăng cường kỹ năng công nghệ số của phóng viên và xây dựng các nền tảng số riêng để giảm sự phụ thuộc vào truyền thông xã hội, đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy trong kỷ nguyên số.
Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
Ngày 17/11/2017, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Quan điểm chỉ đạo được nhấn mạnh trong Nghị quyết (NQ) là: “…chủ động thích ứng, phát huy tiềm năng, thế mạnh, chuyển hóa những thách thức thành cơ hội để phát triển, bảo đảm được cuộc sống ổn định…” (1). NQ này đã được các cơ quan liên quan, trong đó có các cơ quan báo chí quán triệt, triển khai thực hiện. Tuy nhiên, để “chuyển hóa những thách thức thành cơ hội”, nhất là với vùng đồng bằng sông Cửu Long, để phát triển bền vững, an toàn, thịnh vượng thì vai trò, trách nhiệm của báo chí cần được nhận thức đầy đủ, chủ động hơn.
Bình luận