Truyền thông xã hội và sự tác động của nó đến đào tạo, bồi dưỡng báo chí ở Việt Nam
1. Truyền thông xã hội
Truyền thông xã hội được hiểu tốt nhất như là một nhóm các kiểu mới của truyền thông trực tuyến, bao gồm các đặc điểm sau:
Sự tham gia - truyền thông xã hội khuyến khích đóng góp và phản hồi từ tất cả những ai quan tâm. Nó làm mờ ranh giới giữa truyền thông và khán giả.
Tính mở - hầu hết các dịch vụ truyền thông xã hội cho phép nhận thông tin phản hồi và tham gia của người sử dụng, do vậy khuyến khích việc bỏ phiếu, nêu ý kiến và chia sẻ thông tin. Rất ít khi có các rào cản đối với việc tiếp cận và sử dụng nội dung - nội dung được bảo vệ bằng mật khẩu hầu như rất hiếm thấy.
Tính “hội thoại” - trong khi các loại hình truyền thông truyền thống thường mang tính “quảng bá” (nội dung được truyền tải đến khán giả) thì truyền thông xã hội lại mang tính hai chiều.
Tính cộng đồng - truyền thông xã hội cho phép hình thành các cộng đồng một cách nhanh chóng và giao tiếp giữa các thành viên trong cộng đồng một cách hiệu quả. Các cộng đồng chia sẻ mối quan tâm chung, chẳng hạn như tình yêu đối với nhiếp ảnh, một vấn đề chính trị hay một chương trình truyền hình yêu thích.
Tính kết nối - hầu hết các loại truyền thông xã hội phát triển mạnh nhờ tính kết nối của chúng, cụ thể là việc liên kết đến các trang web, tài nguyên và con người khác(1).
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra ít nhất 7 hình thức của truyền thông xã hội: Các trang web mạng xã hội; Blog; Wiki; Podcast; Diễn đàn; Cộng đồng nội dung; Tiểu blog.
Trang web mạng xã hội (SNS) là từ viết tắt của Social Networking Service, các dịch vụ trên nền web là phương tiện trực tuyến để tạo mối quan hệ với những người khác có cùng sở thích, văn hóa, hoàn cảnh hoặc một mối quan hệ thực sự. Người dùng dịch vụ mạng xã hội tạo một hồ sơ với thông tin cá nhân, hình ảnh,… và có những kết nối với các hồ sơ khác. Những người dùng này sử dụng kết nối của họ để phát triển mối quan hệ thông qua chia sẻ, gửi email, tin nhắn và các bình luận. Các dịch vụ mạng xã hội cũng có thể được gọi là “Social Networking Site – trang mạng xã hội” hay đơn giản là “Social Media - phương tiện truyền thông xã hội” như Facebook, Instagram, Twitter, Pinterest,…
Các trang web SNS cho phép “đại diện kỹ thuật số cho các kết nối của chúng ta với người dùng khác - có nghĩa là chúng ta có thể sử dụng các trang web này để mô hình mạng các mối quan hệ xã hội của chúng ta bằng cách yêu cầu và chấp nhận “bạn bè” hay “các mối liên lạc”(2). Tính đến thời điểm hiện nay thì Facebook và Renren là những SNS hàng đầu. Điểm thu hút chính của Facebook có thể là việc làm xuất hiện “trở lại sự giao tiếp thông tin giữa những người láng giềng” trong một xã hội thông tin toàn cầu.
Mô hình kinh doanh SNS dựa trên quảng cáo trực tuyến, thông qua quảng cáo được nhắm mục tiêu sử dụng thông tin cá nhân, thói quen tìm kiếm, vị trí hoặc dữ liệu khác của cá nhân hoặc bằng cách bán thông tin cá nhân cho bên thứ ba. Sự phát triển của các công nghệ di động, như điện thoại thông minh và máy tính bảng, đã giúp tăng trưởng việc chấp nhận và sử dụng SNS.
Blog, viết tắt của “web logs” (nhật ký trên web), là các trang web “chứa đựng những kinh nghiệm, quan sát, ý kiến v.v.. mang tính cá nhân của tác giả hay một nhóm tác giả và thường có các hình ảnh và liên kết đến các trang web khác”(3). Blog cung cấp cho mọi người cơ hội để đưa ra quan điểm riêng của mình cho cả thế giới đọc và nhận các ý kiến phản hồi. Có ba loại blog cơ bản: (1) blog cá nhân - nơi các blogger kể lại cuộc sống thực của mình; (2) blog lọc - nơi mà các blogger sàng lọc các trang web cho người đọc; và (3) blog theo chủ đề(4).
Hầu hết mọi người biết wiki vì Wikipedia. Wikipedia mang lại cho wiki những thứ giống như Facebook mang lại cho mạng xã hội. Một wiki “là một phần của phần mềm máy chủ, cho phép người dùng tự do tạo lập và chỉnh sửa nội dung trang web sử dụng bất kỳ trình duyệt Web nào”(5). Đây là nền tảng mà Wikipedia sử dụng bởi “Một cộng tác chỉnh sửa, đa ngôn ngữ, bách khoa toàn thư miễn phí Internet”(6).
Wikipedia được hợp viết bởi các tình nguyện viên trên khắp thế giới! Sự khai thác khổng lồ này đã được thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản tại trung tâm của tất cả các wiki, bao gồm: (1) Mở và chỉnh sửa ngay lập tức; (2) Ghi lại toàn bộ chỉnh sửa; (3) Cú pháp chỉnh sửa đặc biệt được coi là dễ học hơn đáng kể so với HTML; (4) Các trang liên kết - tất cả các trang trên Wikipedia được liên kết đến các trang Wikipedia khác để tạo thành một mạng lưới siêu văn bản hoặc các trang liên kết với nhau; (5) Nội dung đa phương tiện; (6) Các tiêu chuẩn nội dung - Wikipedia không lấy tất cả mọi thứ; tất cả các bài viết phải là bách khoa, trung lập, và kiểm chứng được; (7) Nội dung đưa ra thảo luận - mỗi trang wiki và bài viết đều kèm theo thảo luận liên quan hoặc trang thảo luận. Những biên tập viên quan tâm có thể thảo luận về bất kỳ thay đổi nào liên quan đến bài viết; (8) Những cải tiến tăng lên của các bài viết; (9) Hợp tác ra quyết định; (10) Cộng đồng - Một cộng đồng tình nguyện viên phức hợp và tận tụy đằng sau Wikipedia, phát triển nội dung, chính sách và thực tiễn; (11) Nội dung đa ngôn ngữ - các bài viết không chỉ bằng tiếng Anh; (12) Hoàn toàn tự do - hoàn toàn không mất phí tổn nào để tiếp cận nội dung trên Wikipedia(7).
Hay nói cách khác “wiki là loại trang mạng cho phép một số hoặc tất cả những người xem trang mạng được quyền thêm, xóa, thay đổi các trang và nội dung một cách rất nhanh chóng và dễ dàng”.
Podcast là “một loại phương tiện truyền thông kỹ thuật số bao gồm một loạt các hình thức như đài phát thanh, video, PDF, hoặc các tập tin ePub đăng ký và tải về thông qua việc cung cấp thông tin trang web và truyền trực tuyến tới một máy tính hoặc thiết bị di động”(8) Podcasting cho phép một cá nhân có khả năng thiết lập đài phát thanh của riêng mình. Nó được coi là một “công nghệ đột phá” vì nó “cho phép dùng những cách thức mới và khác nhau để làm những nhiệm vụ quen thuộc và trong quá trình này, nó có thể đe dọa ngành công nghiệp truyền thống”(9).
Diễn đàn là “các trang web thảo luận trực tuyến, nơi mọi người có thể duy trì cuộc hội thoại dưới hình thức đăng các tin nhắn”(10). Đó là “sự phân cấp hoặc hình cây giống như trong cấu trúc: một diễn đàn có thể chứa một số chuyên mục con, mỗi chyên mục trong số đó có thể có một số chủ đề”. Các diễn đàn có nguồn gốc từ các kết nối từ xa với hệ thống các bảng thông báo của những năm 1970. Nhưng nó là một hình thức truyền thông xã hội bởi vì, từ góc độ công nghệ, diễn đàn “là các ứng dụng web quản lý các nội dung do người dùng tạo ra”.
Cộng đồng nội dung được “xác định bởi một nhóm người thống nhất trực tuyến xung quanh một đối tượng được quan tâm chung. Các đối tượng có thể là về bất cứ điều gì, ví dụ như: hình ảnh, video, liên kết, chủ đề hoặc vấn đề và thường được tổ chức và phát triển theo cách bao gồm các yếu tố mạng xã hội hoặc làm cho chúng trở thành trung tâm của nội dung”(11). YouTube và Flicker là các cộng đồng nội dung phổ biến nhất. YouTube đã trở thành trang web chia sẻ video lớn nhất thế giới.
Tiểu blog (Microblogging) “là việc tiến hành đăng những mẩu nhỏ của nội dung kỹ thuật số - chúng có thể là văn bản, hình ảnh, liên kết, đoạn video ngắn, hoặc các loại hình truyền thông khác - trên Internet”(12). Twitter và Sina Weibo là đi tiên phong trong lĩnh vực này.
2. Tác động của truyền thông xã hội đến đào tạo và bồi dưỡng báo chí
Nhà báo đa năng là người làm báo có vốn kiến thức toàn diện; kỹ năng nghiệp vụ đa dạng (gồm viết, phỏng vấn, chụp ảnh, quay phim, biên tập, sử dụng công nghệ truyền thông hiện đại); tư duy sáng tạo kết hợp với năng lực nhạy bén: “học đi đôi với hành”; thích nghi với hoạt động quản lý kinh doanh và truyền thông đa phương tiện.
Công nghệ truyền thông xã hội như một công cụ mạnh mẽ để tăng cường vào hoạt động đào tạo báo chí ở Việt Nam. Truyền thông xã hội có thể tác động tích cực trong hoạt động đào tạo và bồi dưỡng báo chí:
Truyền thông xã hội có thể cung cấp động lực cho các phương pháp tiếp cận và hợp tác dựa trên các câu hỏi.
Nó cũng có thể cung cấp một môi trường dưới nhiều hình thức hỗ trợ bằng cách cho phép người học kết nối, tương tác và chia sẻ ý tưởng một cách linh động.
Wiki và các công cụ chỉnh sửa, hợp tác viết có thể có những mở rộng hữu ích để tiếp cận văn bản thông thường. Chúng cho phép chia sẻ và công bố các giả tưởng được sản xuất dựa trên kết quả của các hoạt động học tập, thông tin phản hồi từ đồng nghiệp. Bằng cách xuất bản và trình bày công việc của chúng cho một đối tượng rộng, người học được hưởng lợi từ các cơ hội để thích hợp với những ý tưởng mới và biến đổi sự hiểu biết của họ thông qua sự phản ánh.
SNS và blog là các không gian tương tác xã hội nơi người học có thể lựa chọn để khám phá các khía cạnh của bản sắc riêng của họ, cũng như tham gia vào các thể hiện cá nhân, đối thoại và chia sẻ kiến thức với những người khác.
Podcast là lựa chọn thay thế tuyệt vời cho những bài học và nội dung nghiên cứu được cung cấp cho người học cần hỗ trợ, mở rộng hoặc sửa chữa. Người học có thể tạo ra Podcast của riêng họ để chia sẻ kinh nghiệm học tập với các sinh viên khác từ các trường khác. Giáo viên có thể ghi lại âm thanh Podcast để cung cấp bổ sung và sửa đổi các tài liệu cho sinh viên để tải về và ôn tập tại một thời điểm đó phù hợp nhất với họ. Podcast rất có lợi cho những học viên học qua thính giác và giúp họ trong việc học của họ. Tạo Podcast cho phép sinh viên phát triển một số kỹ năng quan trọng: chẳng hạn như nghiên cứu, viết, trình bày, giải quyết vấn đề, quản lý thời gian, rèn tính tập trung và cải thiện vốn từ vựng của họ.
Twitter có thể được sử dụng trong môi trường học thuật để thúc đẩy sự tương tác về một chủ đề nhất định. Twitter có thể là một nền tảng khả thi cho siêu nhận thức, buộc người dùng phải ngắn gọn và chính xác - một kỹ năng quan trọng trong suy nghĩ rõ ràng và giao tiếp hiệu quả.
Classroom Salon, một công cụ được phát triển bởi Alex Cheek, Ananda Gunawardena và David Kaufer tại Đại học Carnegie Mellon, là một công cụ hợp tác xã hội trực tuyến, có thể được sử dụng cho các bước sau:
Khuyến khích đọc sách. Giáo viên có thể gửi tài liệu và học sinh cần phải đọc và chú thích.
Thực hiện một lớp học đảo ngược. Một lớp học đảo ngược cho phép giáo viên ghi lại trực tiếp bài học của họ, gửi và chia sẻ chúng thông qua Classroom Salon và những ý kiến, các câu hỏi.
Sinh viên có thể gửi bài viết trong khi giáo viên hoặc sinh viên cũng có thể đưa ra các ý kiến để cải thiện bài viết.
Công cụ này đã được sử dụng bởi hơn hàng chục ngàn giáo viên và sinh viên trên toàn thế giới. Classroom Salon cũng có tính năng cho phép giáo viên hướng dẫn theo dõi những phân tích về người học để đánh giá cả sự tham gia của sinh viên và hiệu quả cá nhân.
Open Study là ví dụ về một cộng đồng học tập xã hội trực tuyến, cho phép sinh viên kết nối với các sinh viên khác học tập những điều tương tự cùng một lúc. Các tính năng chính được tập trung vào việc cung cấp sự tương tác cho phép một người sử dụng: (1) biết ai đang trực tuyến; (2) hỏi câu hỏi; (3) tham gia thảo luận; (4) nghiên cứu với nhau; (5) cảm ơn một người sử dụng đã giúp đỡ mình; (6) trò chuyện với những người dùng khác trong thời gian thực.
Công tác đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí ngày nay đã từng bước phá vỡ mô hình đào tạo truyền thống. Nhu cầu của truyền thông xã hội đòi hỏi người được tuyển dụng có kiến thức nền tảng vững chắc đồng thời phải có kỹ năng chuyên sâu trong một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp. Bên cạnh các khóa học đào tạo chuyên sâu về một lĩnh vực truyền thông như báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử…, các khóa đào tạo “kép”, kết hợp báo chí truyền thông với một ngành khoa học xã hội khác như xã hội, kinh tế, luật… Do tác động mạnh mẽ của truyền thông xã hội, việc kết hợp giữa đào tạo trong nhà trường và bồi dưỡng nghiệp vụ tại các cơ quan báo chí đóng vai trò hết sức quan trọng, bởi nó có thể giúp các nhà báo được đào tạo lại, thích ứng với những công nghệ làm báo mới.
Truyền thông xã hội đang phát triển mạnh mẽ từng ngày, từng giờ trong kỷ nguyên kỹ thuật số. Chính vì vậy, yêu cầu công tác đào tạo nhà báo cần phải cải tiến một cách mạnh mẽ, vừa khoa học, nhưng phải mang tính hệ thống,... để thích ứng với nhu cầu của các phương tiện truyền thông đang trong quá trình đổi mới, từ đó đào tạo ra đội ngũ nhà báo đa năng, chuyên nghiệp, phù hợp với nhu cầu của các phương tiện truyền thông hiện nay./.
____________________
(1) Anthony Mayfield, Truyền thông xã hội là gì (iCrossing, 2008)
(2) Nicole B. Ellison, Cliff Lampe và Charles Steinfield, “Trang web mạng xã hội và xã hội: Xu hướng hiện tại và khả năng trong tương lai”, tương tác (tháng1-tháng 2 năm 2009), tr6.
(3) http://wiki.org/wiki.cgi?WhatIsWiki.
(4) Jill Walker Rettberg, blog (Cambridge, Vương quốc Anh, Polity, 2008), tr.9-17.
(5) http://dictionary.reference.com/browse/blog.
(6) http://en.wikipedia.org/wiki/Wikipedia.
(7)http://ia600603.us.archive.org/31/items/HowWikipediaWorks/HowWikipediaWorks.pdf.
(8) http://en.wikipedia.org/wiki/Podcast.
(9)http://llt.msu.edu/vol9num3/emerging/default.html
(10) http://en.wikipedia.org/wiki/Internet_forum.
(11)http://technologyinprevention.wikispaces.com/Content+Communities.
(12) http://www.educause.edu/library/resources/7-things-you-should-know-about-microblogging.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông tháng 05.2021
Bài liên quan
- Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
- Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
- Nâng cao năng lực tư duy phản biện và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ báo chí - truyền thông trong bối cảnh thông tin hiện nay
- Tích hợp giảng dạy AI trong đào tạo báo chí, truyền thông: Tiếp cận từ đặc điểm người học
- Truyền thông hình ảnh về Tổng Bí thư Tô Lâm trên báo Nhân Dân điện tử
Xem nhiều
-
1
Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
-
2
Nâng cao chất lượng thực hành nghề nghiệp cho sinh viên ngành công tác xã hội tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
-
3
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
-
4
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
-
5
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
-
6
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Vai trò của báo chí đối với xây dựng văn hóa số ở Việt Nam hiện nay
Bài viết phân tích vai trò thiết yếu của báo chí trong xây dựng văn hóa số tại Việt Nam hiện nay, từ định hướng giá trị đến giáo dục cộng đồng số. Qua các ví dụ thực tiễn, bài viết làm rõ những ưu điểm nổi bật như đổi mới nội dung, ứng dụng công nghệ và phát huy sức lan tỏa. Đồng thời, một số hạn chế cũng được nhận diện như chậm chuyển đổi số, chạy theo tin giật gân và thiếu chiều sâu trong phản biện văn hóa. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải pháp về chính sách, nhân lực và hợp tác đa ngành để báo chí tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong kiến tạo môi trường văn hóa lành mạnh, nhân văn và hiện đại trên không gian số.
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
Kỷ nguyên mới đặt ra những thách thức mới cho báo chí – truyền thông Việt Nam. Đã có một sự thay đổi rõ nét về khái niệm, mô hình tổ chức, nội dung và mối quan hệ với công chúng dưới tác động của công nghệ số. Trong quá trình đó, vai trò định hướng xuyên suốt của Đảng trong phát triển báo chí cách mạng, nhất là trong giai đoạn 2006–2025 là đặc biệt sâu sắc. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất các yêu cầu cấp thiết và ba nguyên tắc cốt lõi nhằm phát triển nền báo chí – truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới.
Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
Báo chí đa nền tảng (Multi platform journalism) đã trở thành xu hướng tất yếu trên thế giới và tại Việt Nam những năm gần đây. Tại Việt Nam, sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu 70% cơ quan báo chí đưa nội dung lên các nền tảng số vào năm 2025 và 100% vào năm 2030, báo chí đa nền tảng càng được các tòa soạn đầu tư phát triển, tập trung vào ba nền tảng chính: nền tảng xã hội (social), nền tảng di động (mobile), nền tảng web. Bài viết sẽ đi sâu vào nghiên cứu về sự phát triển của xu hướng báo chí đa nền tảng ở Việt Nam hiện nay, những vấn đề đặt ra ở góc độ nguồn nhân lực, từ đó, đề xuất một số giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực báo chí truyền thông đáp ứng nhu cầu phát triển báo chí đa nền tảng tại Việt Nam.
Nâng cao năng lực tư duy phản biện và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ báo chí - truyền thông trong bối cảnh thông tin hiện nay
Nâng cao năng lực tư duy phản biện và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ báo chí - truyền thông trong bối cảnh thông tin hiện nay
Kỷ nguyên số đã tạo ra một bối cảnh thông tin phức tạp chưa từng có, đặt ra những thách thức sâu sắc đối với báo chí - truyền thông Việt Nam. Sự bùng nổ của nội dung do Trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, tin giả, và thông tin sai lệch trên các nền tảng mạng xã hội sẽ làm xói mòn lòng tin công chúng và uy tín của báo chí. Trong bối cảnh này, việc nâng cao năng lực tư duy phản biện và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ báo chí - truyền thông trở thành yêu cầu cấp thiết, không chỉ để duy trì chất lượng thông tin mà còn để bảo vệ nền tảng tư tưởng, định hướng dư luận xã hội và góp phần vào sự ổn định quốc gia. Bài viết phân tích, đề cập về vấn đề tư duy phản biện và đạo đức nghề nghiệp trong báo chí Việt Nam, chỉ ra những biểu hiện tích cực, các hạn chế và nguyên nhân. Từ đó, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, đồng thời nhấn mạnh vai trò của cơ quan quản lý, các tổ chức báo chí và sự tự thân rèn luyện của mỗi nhà báo, hướng tới xây dựng một nền báo chí vững mạnh, bản lĩnh và có trách nhiệm trong kỷ nguyên mới.
Tích hợp giảng dạy AI trong đào tạo báo chí, truyền thông: Tiếp cận từ đặc điểm người học
Tích hợp giảng dạy AI trong đào tạo báo chí, truyền thông: Tiếp cận từ đặc điểm người học
Trong bối cảnh giáo dục hiện đại với công nghệ phát triển mạnh mẽ, AI vừa là đối tượng để học tập, vừa là yếu tố thúc đẩy học tập chủ động và kiến tạo tri thức thông qua quá trình học. Dựa trên khảo sát về nhu cầu, nhận thức, năng lực sử dụng AI và kỳ vọng về các kỹ năng mong muốn được đào tạo của sinh viên báo chí và truyền thông, bài viết đưa ra các đề xuất chính về phát triển chương trình đào tạo tại các cơ sở giáo dục báo chí truyền thông Việt Nam hiện nay.
Bình luận