Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc với công cuộc đổi mới của Đảng ta
Dưới thời Pháp thuộc, thực dân Pháp chia cắt nước ta thành ba kỳ với ba chế độ cai trị khác nhau bằng thủ đoạn chia rẽ Bắc - Trung - Nam, miền núi với miền xuôi, dân tộc đa số với dân tộc thiểu số, lương với giáo, thành thị với nông thôn... nhằm gây mâu thuẫn để nô dịch lâu dài nhân dân Việt Nam. Suốt gần một trăm năm nhân dân ta đã bền bỉ chiến đấu làm cho kẻ thù không lúc nào yên ổn. Cứ cuộc nổi dậy này bị dập tắt thì cuộc khởi nghĩa khác lại bùng nổ. Tuy nhiên, thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tất cả các phong trào khởi nghĩa, các cuộc vận động cải cách, chấn hưng dân tộc đều đi đến kết cục thất bại. Cách mạng nước ta vẫn chưa tìm ra con đường giải thoát đúng đắn. Một trong những nguyên nhân thất bại là do chưa có ngọn cờ tập hợp, thức tỉnh dân tộc, truyền thống đoàn kết dân tộc chưa được khơi dậy và phát huy đúng mức.
Từ một thanh niên yêu nước, nung nấu hoài bão đưa dân tộc thoát khỏi cảnh bị áp bức nô lệ, người thanh niên Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc ra đi tìm chân lý khắp năm châu. Rồi dưới ánh sáng của cách mạng Tháng Mười, Người tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. "Đối với tôi câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập"(1). Ngày 3.2.1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với lãnh tụ Hồ Chí Minh, từ đây sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc chuyển sang bước ngoặt mới có sự lãnh đạo của Đảng.
Các văn kiện đầu tiên của Đảng cũng như hoạt động thực tế đã khẳng định sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế cộng sản vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Hồ Chí Minh phân tích một cách khoa học tính chất và những mâu thuẫn của xã hội nước ta thời bấy giờ - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Những mâu thuẫn cơ bản của xã hội ta đó là mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến, mâu thuẫn giữa công nhân với tư sản dân tộc và tư sản chính quốc, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với đế quốc và bọn tay sai. Trong những mâu thuẫn cơ bản đó, Hồ Chí Minh xác định mâu thuẫn chủ yếu cần tập trung lực lượng giải quyết là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân Pháp và bọn tay sai của chúng. Phương hướng chiến lược của cách mạng là "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cách mạng lúc này là huy động sức mạnh của cả dân tộc đấu tranh đánh đổ đế quốc và phong kiến, giải phóng dân tộc. Khẩu hiệu kêu gọi tập hợp lực lượng nổi tiếng của Hồ Chí Minh là: "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Lời hiệu triệu đó như luồng gió mới thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước, thức tỉnh tinh thần dân tộc trong mọi trái tim người Việt Nam. Bất kỳ người Việt Nam yêu nước nào cũng có thể góp công sức vào công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Vì thế, sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc được Hồ Chí Minh và Đảng ta phát huy mạnh mẽ chưa từng có.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh nói nhiều về đoàn kết với những cụm từ: đại đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết nhân dân, đoàn kết nội bộ, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế vv.. Theo những nhà nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh thì Người đề cập đến "đoàn kết dân tộc" với hai nghĩa khác nhau.
Thứ nhất, "đoàn kết dân tộc" có ý nghĩa tương tự như đoàn kết toàn dân, có lần Người viết: "Đảng ta đã khéo tập hợp mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ trong Mặt trận dân tộc thống nhất, thực hiện đoàn kết dân tộc để đấu tranh chống đế quốc và phong kiến"(2).
Thứ hai, "đoàn kết dân tộc" với nghĩa là sự đoàn kết giữa dân tộc đa số với dân tộc thiểu số, đoàn kết giữa các dân tộc thiểu số với nhau.
Về lý luận và thực tiễn, quan điểm Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc là sự kết hợp tuyệt vời giữa lý luận Mác - Lênin với thực tiễn lịch sử và truyền thống Việt Nam.
Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc đến "đại đoàn kết", trong bài nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt toàn quốc (năm 1951), Người giải thích: "Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ"(3).
Đây là định nghĩa đầy đủ nhất của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Định nghĩa này còn nêu ra mục tiêu và nguyên tắc của đại đoàn kết dân tộc.
Mục tiêu bất di bất dịch của đại đoàn kết dân tộc là bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của toàn thể nhân dân Việt Nam. Đó chính là "hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ". Vấn đề lợi ích dân tộc Người nói đến không phải là cái gì trừu tượng, chung chung mà luôn gắn với nhiệm vụ cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. "Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà", nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Bởi vì, độc lập tự do mà để cho dân đói khổ thì độc lập tự do ấy có nghĩa lý gì.
Để thực hiện mục tiêu quan trọng đó, Hồ Chí Minh còn chỉ ra các nguyên tắc của đoàn kết.
Một là, đoàn kết dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là nguyên tắc nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người nhận thức rất rõ cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, mà bộ phận tiên tiến nhất, cách mạng nhất hiện nay là giai cấp công nhân Việt Nam. Giai cấp công nhân cần có lý luận tiên phong dẫn đường là lý luận Mác - Lênin và phải thông qua chính đảng của mình để lãnh đạo toàn xã hội. Đảng cộng sản Việt Nam không chỉ đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nông dân và nhân dân lao động nước ta, Đảng còn đại biểu cho lợi ích của toàn dân tộc.
Hai là, đoàn kết rộng rãi và lâu dài. Bất kỳ người Việt Nam yêu nước nào tự nguyện tán thành mục tiêu của Đảng miễn là có tài, có đức, có sức muốn phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân thì Đảng và nhân dân lao động Việt Nam thật thà đoàn kết lâu dài với họ. Đoàn kết là một chính sách dân tộc chứ không phải là một thủ đoạn chính trị. Thậm chí ngay cả khi trong quá khứ người đó có sai lầm, khuyết điểm, chống đối ta mà nay thành tâm hối cải và quyết lòng sửa chữa thì chúng ta cũng thu phục sử dụng để họ có cơ hội trở thành người có ích, góp sức đấu tranh và xây dựng nước nhà.
Ba là, phải không ngừng xây dựng và củng cố khối đoàn kết dân tộc. Đây là công việc thường xuyên, xây dựng và củng cố phải làm từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài. Cái "nền gốc" là khối liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Hồ Chí Minh dạy rằng: công nông là gốc của Cách mạng, liên minh này có vững chắc thì Mặt trận dân tộc thống nhất và khối đoàn kết dân tộc mới bảo đảm. Đối với nguyên tắc này, Người nhiều lần nhấn mạnh Đảng phải đoàn kết, nếu trong nội bộ Đảng không đoàn kết thì làm sao lãnh đạo, làm sao tạo được sự đoàn kết thống nhất toàn xã hội. Cho nên: "Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình"(4). Lịch sử đã cho ta bài học về sức mạnh, sức mạnh của dân tộc ta là ở sự đoàn kết thống nhất. Người dạy rằng:
"Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do.
Trái lại lúc nào dân tộc không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn"(5).
Củng cố, phát huy truyền thống đoàn kết của Đảng, của dân tộc cần đi đôi với việc ngăn chặn, đẩy lùi những truyền thống, thói quen lạc hậu gây ảnh hưởng tiêu cực đến đoàn kết. Tức là xây đồng thời với chống, muốn xây thì phải chống. Muốn xây dựng, củng cố khối đoàn kết dân tộc thì cần chống hai quan điểm sai lầm là "cô độc, hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc". Bệnh hẹp hòi là căn bệnh nguy hiểm.
"Trong, thì bệnh này ngăn trở Đảng thống nhất và đoàn kết.
Ngoài, thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân"(6).
Mặt khác, "đối với những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô", "vì quyền lợi cá nhân chống lại lợi ích quốc gia", hay đoàn kết theo kiểu phường hội, cục bộ, địa phương v v... cũng là những biểu hiện của đoàn kết vô nguyên tắc thường xuất hiện trong các tổ chức chính trị ở mọi nơi, mọi lúc cần đấu tranh và kiên quyết loại trừ.
Hồ Chí Minh có câu nói bất hủ, vừa khái quát cô đọng kinh nghiệm lịch sử, vừa mở hướng đi tới tương lai của dân tộc Việt Nam.
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công"(7).
Một số nhà nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phân tích rất có lý rằng Người sử dụng ba lần từ "đoàn kết" hoàn toàn có chủ ý. Nếu ta hình dung ba lần lập lại đoàn kết là ba vòng tròn đồng tâm thì vòng trong cùng là đoàn kết trong nội bộ Đảng (là hạt nhân), vòng thứ hai là đoàn kết toàn dân tộc và vòng thứ ba là đoàn kết quốc tế. Tương ứng với ba vòng tròn đó thì chỉ có "thành công", như là một kết quả tất yếu.
Quan điểm về đoàn kết và đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh chính là sự kế thừa, phát triển truyền thống đoàn kết dân tộc Việt Nam; đồng thời còn là sự vận dụng sáng tạo "cái tinh thần" chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng nước ta. Dưới ngọn cờ của Hồ Chí Minh, của Đảng, mọi tầng lớp nhân dân không phân biệt trẻ già, nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, lương giáo, địa vị xã hội... tất cả đều được huy động, khai thác triệt để không bỏ sót đối tượng nào. Thiết nghĩ trong lịch sử thế giới, hiếm thấy một cuộc vận động cách mạng nào mà sự tập hợp lực lượng lại được thực hiện một cách rộng rãi như dưới ngọn cờ Chủ nghĩa dân tộc Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, hơn ai hết Hồ Chí Minh thấy rõ: "Chủ nghĩa dân tộc là một động lực to lớn của đất nước"(8). Cần hiểu Chủ nghĩa dân tộc Hồ Chí Minh không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan hay chủ nghĩa dân tộc theo kiểu sôvanh nước lớn, nó không hề trái với Chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đây là một Chủ nghĩa dân tộc thấm đậm tính nhân văn cao cả và rất Việt Nam. Khi tìm hiểu về sự bí ẩn, kỳ diệu của dân tộc Việt Nam, GS. Trần Văn Giàu nêu ra câu hỏi cho lịch sử nhưng câu hỏi này lại đúng là lời giải đáp: có dân tộc nào nhiều lần phải đương đầu nhất với một nước lân cận lớn mạnh hơn gấp 10 lần, 20 lần, 30 lần...và rốt cuộc đều đứng vững, không bị đồng hóa, giữ được bản sắc của mình và nếu phải tiến hành chiến tranh thì đều kết thúc bằng những chiến thắng oanh liệt? Hãy thử tìm một nước, một dân tộc, không phải một lần, mà hai lần trong lịch sử hiện đại đánh bại hai cường quốc mạnh nhất thế giới. Lần thứ nhất là chiến thắng Pháp, lần thứ hai là chiến thắng Mỹ.
Vậy mà đường lối cách mạng và quan điểm "đại đoàn kết dân tộc" của Hồ Chí Minh có lúc bị coi là không tuân thủ các nguyên tắc của Quốc tế cộng sản. Nhiều đối tượng Hồ Chí Minh thực hiện "đoàn kết rộng rãi" như: phú nông, địa chủ, tiểu tư sản, tư sản dân tộc...từng bị Quốc tế cộng sản khuyến cáo "không được cường điệu khuynh hướng cách mạng" hoặc "không bao giờ được liên minh với họ". Tuy nhiên, Đại hội lần thứ VII Quốc tế cộng sản (năm 1935) đã minh chứng cho Hồ Chí Minh và khẳng định quan điểm chiến lược của Nguyễn ái Quốc là rất đúng đắn, sáng tạo. Quả thật tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh đã đi trước và vượt lên trên đường lối của Quốc tế cộng sản lúc bấy giờ.
Tư tưởng đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố giai cấp - dân tộc - quốc tế, phù hợp với xu thế phát triển thời đại, nâng truyền thống đoàn kết dân tộc Việt Nam lên tầm cao mới, có cơ sở lý luận và trở thành đường lối chiến lược của Đảng ta. Nhờ có đường lối đúng đắn đó, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc được phát huy mạnh mẽ, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta luôn giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Sau ngày đất nước độc lập, thống nhất, cùng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đoàn kết dân tộc có điều kiện thực hiện thuận lợi hơn trong cả nước. Thế nhưng do nhận thức ấu trĩ, tả khuynh của nhiều nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có cả Việt Nam, là nguyên nhân chủ quan làm cho đất nước sau chiến tranh phát triển hết sức trì trệ. Khủng hoảng kinh tế - xã hội ở những năm đầu thập niên 80 (thế kỷ XX) là một minh chứng.
Bước vào thời kỳ đổi mới, vấn đề đoàn kết dân tộc ở Việt Nam lại đặt ra trong bối cảnh phức tạp. Vấn đề đoàn kết dân tộc phát sinh trên cả hai bình diện, vừa là vấn đề của một quốc gia - dân tộc thống nhất, vừa là vấn đề của từng dân tộc thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Thêm một lần nữa tư tưởng đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh tiếp tục soi sáng công cuộc đổi mới của Đảng ta.
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa trên thế giới đang tác động mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia - dân tộc. Toàn cầu hóa là một tất yếu của thời đại, Việt Nam không thể tự cô lập, tách khỏi vòng xoáy của nó mà phải "chủ động hội nhập". Nhiều nhà khoa học nước ta cho rằng toàn cầu hóa là quá trình phức tạp và đầy mâu thuẫn. Tính phức tạp và mâu thuẫn của nó ở chỗ làm cho thế giới xuất hiện hai xu hướng trái ngược nhau, mỗi xu hướng chứa đựng cả những mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực.
Xu hướng khẳng định yếu tố dân tộc, mặt chủ đạo là độc lập dân tộc, mặt này thể hiện ở sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc tiến bộ. Song, mặt trái của nó là chủ nghĩa bá quyền dân tộc.
Xu hướng quốc tế hóa, mặt tích cực là làm tăng sự giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính. Song, mặt trái của nó là tư tưởng hư vô dân tộc, xem thường bản sắc văn hóa dân tộc, sự áp đặt các "giá trị phương Tây" hay của những nước tự xem là "văn minh".
Điều đáng lưu ý là toàn cầu hóa cho đến nay vẫn nằm trong sự kiểm soát và thao túng của chủ nghĩa đế quốc. Ai cũng thấy rõ nhờ toàn cầu hóa mà các nước giàu lại giàu thêm, khoảng cách giữa các nước giàu và nước nghèo ngày một gia tăng. Chính vì thế nhiều nước châu Phi, châu Mỹ latin phản ứng quyết liệt và đòi tẩy chay toàn cầu hóa.
Trong bối cảnh chung ấy, trải qua chặng đường gần 20 năm, "với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn về nhận thức và hoạt động thực tiễn"(9).
Về thực tiễn, nền kinh tế nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng và đạt tốc độ tăng trưởng cao. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của 10 năm (1990 - 2000) đạt 7,5%; năm 2000 so với năm 1990, GDP tăng 2 lần. Trong 5 năm (2001- 2005), GDP bình quân tăng gần 7,5%; nguồn lực phát triển trong các thành phần kinh tế đã được huy động khá hơn; đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người từ 200 USD năm 1990 tăng lên khoảng 600 USD vào năm 2005. Các mặt văn hóa - tinh thần thật sự khởi sắc, dân chủ xã hội có nhiều tiến bộ, trật tự - an toàn xã hội bảo đảm v v... đặc biệt là nền chính trị ở nước ta luôn giữ vững.
Về nhận thức, nhận thức của Đảng đối với lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền vv... ngày một sâu sắc hơn. Nội dung các nghị quyết của Đảng như: Nghị quyết Trung ương bảy (khóa VII), Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất; Nghị quyết Đại hội VIII (6.1996) nêu lên một trong những bài học thành công của Đảng ta là mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc; Nghị quyết Đại hội IX (4.2001) tiếp tục khẳng định: "Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội (10); Nghị quyết Trung ương bảy (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và về công tác dân tộc là bằng chứng cho sự nhận thức và vận dụng đúng đắn tư tưởng đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới đất nước.
Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là rất nhạy cảm và tiềm ẩn những yếu tố bất ổn. Hiện nay các thế lực thù địch vẫn luôn lợi dụng những yếu kém, sơ hở của Đảng và Nhà nước ta để kích động gây chia rẽ khối đoàn kết dân tộc bằng các chiêu bài "dân tộc", "tôn giáo", "dân chủ" và "nhân quyền" nhằm thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình". Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam còn phải vượt qua nhiều thử thách ở phía trước, nhưng với đường lối đối nội đúng đắn phát huy hết sức mạnh "nội lực" và đường lối đối ngoại mềm dẻo tranh thủ "ngoại lực" "sẽ có ý nghĩa quan trọng giúp Đảng ta vững vàng tiếp tục công cuộc đổi mới thành công./.
___________________________________
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, 2002, Nxb CTQG, H., 2002, T.1, tr. 192.
(2) Sđd, T.10, tr. 18.
(3) Sđd, T.7, tr. 438.
(4) Sđd, T.12, tr. 510.
(5) Sđd, T. 3, tr. 217.
(6) Sđd, T.5, tr. 236.
(7) Sđd, T.10, tr. 349.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Nxb CTQG, H., tr.64.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, 2001, Nxb CTQG, H., tr. 23.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 6 (tháng 11+12)/2005
Bài liên quan
- Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
- Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
- Tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp cận từ góc độ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
Trong chặng đường 30 năm xây dựng phát triển, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông đã có những đóng góp thiết thực vào việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ của Học viện Báo chí và Tuyên truyền, tham gia tích cực vào việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Video điểm lại một số nét cơ bản, ghi nhận những cố gắng không ngừng nghỉ của các thế hệ cán bộ lãnh đạo, biên tập viên, nhân viên Tòa soạn và của đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học và cộng tác viên để cống hiến cho sự phát triển của Tạp chí, góp phần xây dựng nền báo chí cách mạng Việt Nam chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại.
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta đã phải đương đầu với nạn “thù trong, giặc ngoài”, ở cả 2 miền Nam, Bắc vấn đề về xung đột dân tộc trở thành tâm điểm có nguy cơ gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của nhà nước cách mạng non trẻ. Với trí tuệ uyên bác, sự lãnh đạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vấn đề tưởng chừng hết sức phức tạp ấy lại được Người khéo léo giải quyết thành công, đem lại bài học có giá trị cách mạng sâu sắc về công tác dân tộc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất, Người đã để lại di sản quý báu về tư tưởng, đạo đức, phong cách cho Đảng và Nhân dân ta. Di sản Hồ Chí Minh bao quát rộng lớn các vấn đề của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến lời dạy của Người trong Thư gửi “Quân nhân học báo” tháng 4/1949: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”(1) là vấn đề có ý nghĩa thời sự đối với việc nghiên cứu, học tập của cán bộ, đảng viên nói chung, giảng viên làm công tác giảng dạy lý luận chính trị nói riêng hiện nay.
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử đặc biệt, có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn, hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc về xây dựng Đảng cầm quyền, đặc biệt là vấn đề thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Trải qua 55 năm, di huấn của Người về vấn đề này vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và thời đại.
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Suy ngẫm tư tưởng Hồ Chí Minh về “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” và nghiên cứu Điều 3 Quy định số 144 để thấy được bước phát triển của Đảng về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.
Bình luận