Xây dựng lược đồ chọn mẫu trong điều tra dư luận xã hội
Một số phương pháp chọn mẫu cơ bản được sử dụng trong các cuộc điều tra DLXH trong hệ thống ngành tuyên giáo gồm: lấy mẫu ngẫu nhiên hệ thống; lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng; lấy mẫu ngẫu nhiên theo cụm; lấy mẫu ngẫu nhiên theo nhiều nấc; cách lấy mẫu không theo nguyên tắc ngẫu nhiên... Tuy nhiên, để áp dụng phương pháp chọn mẫu trong điều tra DLXH đảm bảo được tính đại diện, chính xác, khách quan cần xây dựng lược đồ chọn mẫu phù hợp. Xây dựng lược đồ chọn mẫu trong điều tra DLXH bao gồm các công việc: xác định quy mô tổng thể chung, xác định cỡ mẫu, lựa chọn phương pháp tổ chức chọn mẫu, phân bổ mẫu và tiến hành chọn mẫu.
XÁC ĐỊNH QUY MÔ VÀ CƠ CẤU CÁC ĐƠN VỊ CỦA TỔNG THỂ CHUNG THUỘC ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU TRA
Trong điều tra DLXH, tùy thuộc vào nội dung và yêu cầu của chủ đề nghiên cứu mà chúng ta xác định quy mô, cơ cấu của các đơn vị tổng thể chung thuộc đối tượng điều tra. Ví dụ: nếu điều tra dư luận về một vấn đề hay sự kiện nào đó đối với toàn thể người dân Việt Nam thì quy mô các đơn vị tổng thể chung bao gồm toàn bộ dân số từ 15 tuổi trở lên đang cư trú tại Việt Nam; nếu nội dung điều tra lấy ý kiến của các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam về tình hình tư tưởng của đảng viên hiện nay thì quy mô các đơn vị tổng thể chung bao gồm toàn bộ số đảng viên đang sinh hoạt ở các cơ sở, tổ chức Đảng.
Cách xác định quy mô và cơ cấu các đơn vị của tổng thể chung phục vụ cho nghiên cứu, điều tra DLXH có thể dựa vào số lượng và cơ cấu dân số từ 15 tuổi trở lên của Việt Nam. Số lượng dân số này được phân theo vùng kinh tế - xã hội và 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, mỗi vùng được phân thành hai khu vực thành thị và nông thôn. Số liệu này có trong kết quả điều tra “Biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình” hàng năm của Tổng cục Thống kê. Đây chính là cơ sở để xác định cỡ mẫu cho cả nước, từng vùng và phân bổ mẫu cho các tỉnh, thành phố và có thể phân bổ mẫu cho các khu vực thành thị, nông thôn khi cần thiết.
XÁC ĐỊNH CỠ MẪU ĐIỀU TRA
Xác định cỡ mẫu hay quy mô mẫu là xác định số đơn vị để đến đó trực tiếp thu thập thông tin của điều tra.
Yêu cầu số liệu điều tra chọn mẫu đại diện cho cấp độ nào thì cỡ mẫu thường xác định cho cấp độ đó. Với điều tra DLXH như nội dung đã đề cập thì cụ thể như sau: nếu số liệu điều tra chọn mẫu yêu cầu chỉ cần đại diện chung cho phạm vi cả nước thì sẽ xác định một cỡ mẫu chung cho cả nước. Nếu số liệu điều tra chọn mẫu cần đại diện đến vùng kinh tế - xã hội thì phải xác định cỡ mẫu cho các vùng. Nếu số liệu điều tra chọn mẫu cần đại diện đến cấp tỉnh, thì phải xác định cỡ mẫu cho các tỉnh (mỗi tỉnh một cỡ mẫu).
LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC CHỌN MẪU
Phương án thứ nhất: Nếu số liệu điều tra chỉ yêu cầu đại diện chung cho cả nước thì cỡ mẫu được phân cho 6 vùng và mỗi vùng chọn ra một số tỉnh, thành phố.
Cách tiến hành chọn mẫu như sau: 1) Chọn lấy một số quận và huyện của tỉnh, thành phố, mỗi quận được chọn sẽ tiến hành điều tra công chức của quận và tiếp tục chọn ra một số phường để điều tra những người làm kinh doanh và hưu trí cư trú tại phường. Còn với mỗi huyện được chọn sẽ tiến hành điều tra công chức của huyện và tiếp tục chọn ra một số xã để điều tra nông dân và hưu trí cư trú tại xã; 2) Chọn một số cơ quan của tỉnh, thành phố để điều tra công chức của tỉnh, thành phố; 3) Chọn một số cơ quan cấp Trung ương đóng tại thành phố để điều tra công chức cơ quan Trung ương (nếu là Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh); 4) Chọn một số trường cao đẳng, đại học để điều tra học sinh, sinh viên;
5) Chọn một số doanh nghiệp để điều tra công nhân của doanh nghiệp. Theo phương pháp trên đây thì tỉnh, thành phố là đơn vị mẫu cấp I; Quận, huyện, các cơ quan của tỉnh và cơ quan Trung ương đóng ở tỉnh, các trường cao đẳng, đại học và các doanh nghiệp là mẫu cấp II, riêng phường của các thành phố có cấp quận và xã là cấp mẫu trung gian. Còn những người cung cấp thông tin (đối tượng điều tra) thuộc các tầng lớp xã hội là mẫu cấp III, mẫu cấp cuối cùng của cuộc điều tra. Số lượng đơn vị mẫu các cấp do cơ quan tổ chức điều tra xác định.
Phương án thứ hai: Nếu số liệu cần đại diện cho từng vùng (6 vùng kinh tế - xã hội) thì cỡ mẫu sẽ xác định cho từng vùng và mỗi vùng sẽ chọn tỉnh, thành phố đại diện (chọn đơn vị mẫu cấp I) và trong mỗi tỉnh, thành phố được chọn lại tiếp tục chọn ra các quận, huyện, cơ quan, trường đại học và doanh nghiệp (chọn đơn vị mẫu cấp II) cũng như ở các quận, huyện được chọn tiếp tục chọn ra các phường, xã (phường, xã là đơn vị mẫu trung gian) để thu thập thông tin từ các đối tượng điều tra (đơn vị mẫu cấp III) được phân theo các tầng lớp xã hội như ở phương án một. Tuy nhiên, số lượng mẫu ở mỗi cấp điều tra ở phương án hai phải nhiều hơn ở phương án một.
PHÂN BỔ MẪU
Nếu theo phương án một (số liệu điều tra cần đại diện cho cấp độ cả nước) thì tiến hành như sau: 1) Số mẫu xác định cho cả nước được phân bổ cho cả 6 vùng theo một trong hai cách: phân bổ tỷ lệ thuận với quy mô tổng hoặc phân bổ tỷ lệ thuận với căn bậc hai quy mô tổng thể. Nếu phân bổ tỷ lệ thuận với quy mô tổng thể thì các tham số bình quân và tỷ lệ chung của cả nước tính từ các vùng thực tế không phải tính lại mà lấy trực tiếp từ số liệu điều tra chọn mẫu. 2) Số mẫu của từng vùng phân đến các tỉnh, thành phố trong vùng có thể xác định như nhau hoặc phân theo tỷ lệ với quy mô tổng thể giữa các tỉnh được chọn trong vùng (trong các tỉnh của vùng được chọn, tỉnh nào có quy mô tổng thể lớn hơn thì sẽ có cỡ mẫu lớn hơn và ngược lại). 3) Khi có cỡ mẫu theo tổng số đơn vị chọn mẫu của từng tỉnh, thành phố thì tính ngược lại để xác định tỷ lệ mẫu của mỗi tỉnh, thành phố so với tổng số mẫu của cả nước được chọn để điều tra, rồi dùng tỷ lệ đó để phân bổ mẫu theo mỗi tầng lớp (nông dân, công nhân, hưu trí …) của cả nước cho các tỉnh, thành phố đó.
Trên cơ sở cỡ mẫu được xác định cho từng tỉnh, thành phố được chọn để điều tra có phân chia cho từng loại tầng lớp: nông dân, công nhân, kinh doanh… thì ở mỗi tỉnh sẽ xác định số quận huyện, số cơ quan, trường học và số doanh nghiệp (mẫu cấp II) cần thiết để tiếp tục lựa chọn số người thuộc mỗi tầng lớp đó để tiến hành thu thập thông tin về dư luận xã hội.
Nếu theo phương án hai (số liệu điều tra cần đại diện cho cấp độ từng vùng) cần tiến hành như sau: 1) Số mẫu của từng vùng được trực tiếp xác định cho từng vùng chứ không phải phân bổ mẫu như phương án một. 2) Tiến hành phân bổ mẫu đã xác định của từng vùng cho các tỉnh, thành phố được chọn trong vùng. Mẫu của vùng có thể phân đều cho là các tỉnh, thành phố hoặc phân theo tỷ lệ với quy mô các đơn vị tổng thể chung giữa các tỉnh, thành phố được chọn trong vùng (trong các tỉnh, thành phố được chọn vào mẫu, tỉnh, thành phố nào có quy mô tổng thể chung lớn hơn thì sẽ có quy mô mẫu lớn hơn và ngược lại). 3) Khi có cỡ mẫu của từng tỉnh, thành phố được chọn thì tiếp tục phân bổ cỡ mẫu theo từng loại tầng lớp xã hội như nông dân, công nhân, kinh doanh… chung của cả nước cho các tỉnh, thành phố tương tự như các phân bổ này theo phương án một. 4) Tiếp theo xác định các huyện, quận, cơ quan, doanh nghiệp… cũng tiến hành như phương án một.
Cần lưu ý, việc phân bổ mẫu các cấp đều do cơ quan tổ chức điều tra thực hiện.
TIẾN HÀNH CHỌN MẪU
Theo cả hai phương án điều tra chọn mẫu DLXH như đã nói ở trên đều phải chọn mẫu 3 cấp: trong từng vùng chọn tỉnh, thành phố (mẫu cấp I). Trong mỗi tỉnh, thành phố được chọn, tiếp tục chọn mẫu các quận huyện; Các cơ quan hành chính cấp trung ương đóng ở thành phố (nếu là thành phố Hà Nội hoặc Thành phố Hồ Chí Minh); Các cơ quan hành chính của tỉnh, thành phố; Các trường cao đẳng, đại học và các doanh nghiệp đóng ở tỉnh, thành phố (mẫu cấp II). Trong mỗi đơn vị mẫu cấp II được chọn lại tiếp tục chọn ra số người cần chọn để điều tra thu thập thông tin. Ngoài ra, ở các quận và huyện được chọn còn phải chọn các phường và xã (gọi là cấp chọn mẫu trung gian) để từ đó tiến hành chọn những người tự kinh doanh và hưu trí cư trú ở phường, chọn những người là nông dân và hưu trí cư trú ở xã.
Trên đây là những nội dung cơ bản của việc xây dựng lược đồ chọn mẫu trong điều tra dư luận xã hội. Tùy theo những yêu cầu và điều kiện của từng cuộc điều tra cụ thể mà vận dụng để xây dựng lược đồ điều tra cho phù hợp./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Tuyên giáo điện tử ngày 28.09.2020
Bài liên quan
- Tăng cường giáo dục đạo đức kinh doanh cho sinh viên khối ngành kinh tế tại các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh
- Quản trị nhà nước tốt gắn liền với thể chế dân chủ ổn định và phát triển
- Chuẩn hóa đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh Tuyên Quang hiện nay
- Quản trị khủng hoảng truyền thông của các doanh nghiệp tổ chức sự kiện ở Việt Nam hiện nay
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long tham gia xây dựng chính quyền cùng cấp hiện nay
Xem nhiều
-
1
Mạch Nguồn số 66: LỜI HIỆU TRIỆU MÙA XUÂN
-
2
Mạch Nguồn số 68: LAN TỎA PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC TẠI HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
-
3
[Video] Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Động lực mới cho phát triển kinh tế”
-
4
Mạch Nguồn số 65: NHÌN LẠI 2024 "CHUYỆN LÀNG, CHUYỆN NƯỚC"
-
5
Tiếp tục cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực - Nhân tố cốt lõi bảo đảm thành công trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
-
6
Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Đề cao sức mạnh văn hóa tinh thần, tăng "đề kháng", ngăn ngừa suy thoái về tư tưởng chính trị - Bài 3: Chung tay xây dựng “sức mạnh mềm” của dân tộc
Văn hóa tinh thần có vai trò vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia, dân tộc và được ví như “sức mạnh mềm” trong thời kỳ phát triển cạnh tranh gay gắt. Nó giúp xác định, duy trì các giá trị, niềm tin, quy tắc đạo đức, pháp luật. Nó giúp thúc đẩy con người thay đổi ý thức, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy các giá trị tích cực, hình thành tư duy, nuôi dưỡng tâm hồn trong sáng, xây dựng nhân cách, biết tôn trọng người khác, phát triển kỹ năng giao tiếp và nhân cách toàn diện. Nói một cách đơn giản và dễ hiểu thì nếu xây dựng được nền tảng văn hóa tinh thần vững chắc và phong phú, giàu nhân văn, nhân ái sẽ tạo ra môi trường để con người, xã hội thể hiện bản thân, khám phá ý tưởng mới và phát triển các hình thức nghệ thuật, văn hóa mới.
Tăng cường giáo dục đạo đức kinh doanh cho sinh viên khối ngành kinh tế tại các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh
Tăng cường giáo dục đạo đức kinh doanh cho sinh viên khối ngành kinh tế tại các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, việc giáo dục đạo đức kinh doanh cho sinh viên khối ngành kinh tế ngày càng trở nên cấp thiết. Bài báo tập trung nghiên cứu làm rõ khái niệm, vai trò và thực tiễn giáo dục đạo đức kinh doanh cho sinh viên khối ngành kinh tế tại các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh. Bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt động giáo dục đạo đức kinh doanh trong các nhà trường, góp phần hình thành thế hệ doanh nhân tương lai có trách nhiệm xã hội và năng lực ứng xử đạo đức trong môi trường kinh doanh hiện đại.
Quản trị nhà nước tốt gắn liền với thể chế dân chủ ổn định và phát triển
Quản trị nhà nước tốt gắn liền với thể chế dân chủ ổn định và phát triển
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số, các quốc gia ngày càng nhận thức rõ rằng hiệu quả quản trị nhà nước không chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà còn là kết quả của một thể chế chính trị phù hợp. Trong đó, thể chế dân chủ với các nguyên tắc minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham gia của người dân được xem là nền tảng quan trọng để xây dựng một nhà nước hiện đại, pháp quyền và phát triển bền vững.
Chuẩn hóa đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh Tuyên Quang hiện nay
Chuẩn hóa đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh Tuyên Quang hiện nay
Trong bối cảnh tỉnh Tuyên Quang đang tích cực thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới, nâng cao và đẩy mạnh cải cách hành chính, yêu cầu đặt ra là phải có một đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã thực sự vững vàng về chính trị, giỏi về chuyên môn, đáp ứng tốt nhiệm vụ trong tình hình mới. Tuy nhiên, thực tế hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất định về chất lượng, cơ cấu, trình độ và năng lực điều hành của cán bộ chủ chốt ở cấp xã, ảnh hưởng đến hiệu quả công việc và lòng tin của nhân dân. Việc nghiên cứu, đánh giá và đề xuất giải pháp chuẩn hóa đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là yêu cầu cấp thiết nhằm góp phần nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở và đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của tỉnh trong giai đoạn tới.
Quản trị khủng hoảng truyền thông của các doanh nghiệp tổ chức sự kiện ở Việt Nam hiện nay
Quản trị khủng hoảng truyền thông của các doanh nghiệp tổ chức sự kiện ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh truyền thông số và mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, vai trò của truyền thông trong việc kiến tạo, duy trì và bảo vệ hình ảnh công chúng của doanh nghiệp ngày càng trở nên trọng yếu. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tổ chức sự kiện – một lĩnh vực đặc thù, nơi giá trị thương hiệu gắn liền với tính chuyên nghiệp, uy tín tổ chức và trải nghiệm truyền thông trực tiếp của công chúng – thì công tác quản trị khủng hoảng truyền thông không chỉ là yêu cầu tất yếu mà còn là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển bền vững. Thực tiễn truyền thông tại Việt Nam cho thấy, không ít sự kiện, lễ hội hay chương trình giải trí quy mô lớn từng vướng vào các khủng hoảng truyền thông ở nhiều cấp độ, từ sai sót trong tổ chức đến các phản ứng tiêu cực trên không gian mạng, gây tổn hại nghiêm trọng đến hình ảnh thương hiệu và mức độ tín nhiệm từ phía công chúng. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và tính cấp thiết nêu trên, bài viết tập trung phân tích hiện trạng công tác quản trị khủng hoảng truyền thông trong các doanh nghiệp tổ chức sự kiện tại Việt Nam hiện nay, nhận diện các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến khủng hoảng, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực truyền thông ứng phó và bảo vệ hình ảnh doanh nghiệp trong môi trường truyền thông số nhiều biến động.
Bình luận