Ý định vào thăm miền Nam của Bác Hồ
“Ta hiểu: Miền Nam thương nhớ Bác
Tháng ngày mong đợi Bác vô thăm,
Ta hiểu: đêm nằm nghe gió gác
Bác thường trăn trở nhớ miền Nam”
(Tố Hữu)
Từ Thủ đô Hà Nội, Bác Hồ đau đáu nghĩ đến đồng bào miền Nam đau thương mà anh dũng. “Miền Nam yêu quý luôn ở trong trái tim tôi”. Đó là khẳng định, là tình cảm bất di bất dịch của Bác đối với miền Nam ruột thịt. Chính vì vậy, Bác đã nhiều lần dự định vào thăm mảnh đất thành đồng Tổ quốc.
Và đến giữa những ngày kháng chiến chống Mỹ ác liệt, Bác lại tha thiết đề nghị Bộ chính trị bố trí cho Bác vào thăm miền Nam. Nhưng tình hình chiến sự và điều kiện sức khoẻ không cho phép Bác đi xa được. Bác lại đề nghị: “Đường xa, không vào Nam Bộ, thì tôi vào Khu Năm cũng được.”
Đến đầu tháng 3.1968, Bác Hồ đã gửi thư cho đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn trao đổi về cách đi vào Nam bằng đường thuỷ như sau:
“10.3.1968
Tuyệt đối bí mật
Chú Duẩn kính mến,
Nhớ lại hồi Nô-en năm ngoái, chú có ý khuyên Bác đi thăm miền Nam sau ngày ta thắng lợi hoàn toàn, Bác rất tán thành. Nhưng nay chỉ đổi chữ “sau” thành chữ trước ngày thắng lợi hoàn toàn, tức là đi thăm khi anh em trỏng đang chuẩn bị mở màn thứ ba. Đi thăm đúng lúc đó mới có tác dụng khuyến khích thêm anh em.
Cách đi: Bác sẽ làm công trên một chiếc tàu thuỷ. Cùng đi sẽ có hai chú Bảo và Kỳ. Việc này Bác tự thu xếp, dễ thôi. Lúc đến, anh em trỏng chỉ phụ trách đón khi tàu cập bến thôi và đưa Bác đến nhà anh Sáu, anh Bảy(1), (2).
ở lại: Tuỳ điều kiện mà quyết định, ít nhất là mấy ngày, nhiều nhất cũng chỉ trong một tháng, hoạt động thế nào, sẽ cùng anh em trỏng bàn định…
Có lẽ chú và đồng chí khác e rằng sức khoẻ của Bác không cho phép Bác đi nơi xa. Nhưng thay đổi không khí, hô hấp gió biển và sinh hoạt quần chúng trong hoàn cảnh chiến đấu sẽ giúp sức khoẻ tiến bộ mau hơn.
Lịch trình đi thăm – cần mười ngày để chuẩn bị.
Vượt biển độ sáu ngày.
Từ bến tàu đến địa điểm độ dăm hôm.
Vậy nhờ chú tính ngày cho khớp, một mặt cho Bác biết trước để chuẩn bị, một mặt cho anh em trỏng biết để chờ đón.
Để bảo đảm thật bí mật, chú chỉ nên bàn việc này với một số ít đồng chí trong Bộ chính trị…
Mong chờ chú trả lời.
Chào thân ái và quyết thắng.
B.”
ôi cảm động biết bao! Hồi ấy, bộ đội ta “đi B” theo đường Trường Sơn phải mất bốn, năm tháng mới đến được miền Đông Nam bộ. Vậy mà, Bác đã dự định “vượt biển độ 6 ngày” và cũng tương tự như cách Bác đã ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Đặc biệt, trong thư, Bác dùng từ “trỏng” (tức là trong ấy – tiếng miền Nam) một cách tự nhiên như là một điều hết sức quen thuộc, gần gũi!
Nhưng rồi, cuộc chiến ngày càng khốc liệt và sức khoẻ bị giảm sút, nên ý định vào thăm miền Nam của Bác không thực hiện được. Trong một bức thư gửi Trung ương Cục và Quân uỷ miền Nam (năm 1968), đồng chí Lê Duẩn đã viết: “Các anh sắp bước vào giai đoạn chiến đấu chưa từng có trong cuộc chiến tranh giải phóng này. Đồng bào miền Nam đau khổ đã nhiều. Bác Hồ hết sức quan tâm theo dõi đợt chiến đấu sắp tới. Bác muốn đích thân vào miền Nam để động viên chiến sĩ, đồng bào, nhưng Bộ chính trị đề nghị Bác chưa nên đi vì cần giữ gìn sức khoẻ cho Bác. Tôi tha thiết mong rằng các đồng chí, cùng chiến sĩ, đồng bào miền Nam sẽ đem hết tinh thần và lực lượng vào trận đánh chiến lược này, giành thắng lợi to lớn nhất để sớm đón Bác vào thăm.”
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 diễn ra trên toàn miền Nam đã làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Quân và dân ta đã giáng những đòn sấm sét vào nhiều cơ quan đầu não của Mỹ – Nguỵ, “làm chấn động cả Lầu Năm Góc”, buộc địch phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Pari. Năm đó, Bác không được vô thăm miền Nam và đến năm sau thì Người đã ra đi vào cõi vĩnh hằng.
Bác Hồ muôn vàn kính yêu không còn nữa, nhưng ngọn cờ của Bác, tư tưởng của Bác, thiên tài và đức độ của Bác vẫn đang từng ngày, từng giờ soi đường chỉ lối, dẫn dắt chúng ta đi. Trong tâm khảm của muôn triệu con Hồng cháu Lạc nói chung và của đồng bào miền Nam nói riêng vẫn mãi mãi ngân vang những câu hát của một thời đấu tranh oanh liệt: “Ai yêu miền Nam như tấm lòng của Bác/ Có mối tình nào thuỷ chung, son sắt như tấm lòng của Bác đối với đồng bào miền Nam…”./.
_________________________________
(1) Anh Sáu, tức đồng chí Lê Đức Thọ, Uỷ viên Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
(2) Anh Bảy, tức đồng chí Phạm Hùng, Uỷ viên Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Trung ương Cục miền Nam.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền tháng 1,2 năm 2006
Bài liên quan
- Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
- Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
-
2
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
-
3
[Video] Dấu ấn Cách mạng Tháng Tám qua những hiện vật lịch sử
-
4
Truyền thông đại chúng trong kỷ nguyên số: động lực đổi mới mô hình phát triển xã hội Việt Nam hiện nay
-
5
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
-
6
Tác động của quảng cáo sản phẩm trên mạng xã hội đến hành vi mua sắm của học sinh trung học phổ thông Hà Nội
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứTư và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức diễn ra mạnh mẽ, việc xây dựng lực lượng sản xuất mới trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam. Trong đó, nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò then chốt, quyết định khả năng tiếp thu, ứng dụng và sáng tạo khoa học – công nghệ, thúc đẩy năng suất lao động, đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Bài viết tập trung làm rõ vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay - nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở nước ta.
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Trong suốt hơn hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, tên của Tổng thống Vladimir Putin đã trở thành biểu tượng gắn liền với tiến trình phát triển và chuyển mình của Liên bang Nga. Từ một quốc gia đối mặt với khủng hoảng kinh tế - chính trị nghiêm trọng sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin đã từng bước khôi phục ổn định, nâng cao vị thế quốc tế và củng cố bản sắc quốc gia. Dù vẫn còn không ít tranh cãi, không thể phủ nhận rằng Tổng thống Vladimir Putin đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nước Nga hiện đại như một nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn lao và lâu dài. Bài viết được thực hiện với mục đích phân tích các giai đoạn cầm quyền của ông, từ đó làm rõ những đóng góp, lựa chọn chiến lược và quyết sách của Ông đối với vận mệnh quốc gia. Qua đó, góp phần lý giải vì sao Tổng thống Vladimir Putin được xem là “người sẽ cứu nước Nga” trong thời kỳ chuyển giao và định hình bản sắc, quyền lực quốc gia hậu Xô Viết.
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Công cuộc tinh gọn bộ máy nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước hiện đại, hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả, phục vụ nhân dân. Trong tiến trình đó, công tác cán bộ đóng vai trò trung tâm, bởi cán bộ chính là người tổ chức và thực thi cải cách. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự tương xứng với yêu cầu đổi mới bộ máy nhà nước. Bài viết tiếp cận vấn đề từ nền tảng lý luận Mác, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng để phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn trong đổi mới công tác cán bộ, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống chính trị trong bối cảnh mới.
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh chuyển đổi số y tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn quốc, một số bệnh viện tuyến trung ương đã bước đầu ứng dụng truyền thông số hiệu quả trong tư vấn tâm lý – xã hội, kết nối cộng đồng và vận động nguồn lực, tuy nhiên, phần lớn bệnh viện tuyến tỉnh, huyện chưa có điều kiện triển khai đầy đủ. Bài viết đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tích hợp truyền thông số vào hoạt động công tác xã hội (CTXH) tại bệnh viện, góp phần định hướng phát triển CTXH bệnh viện theo hướng chuyên nghiệp, công bằng và thích ứng với bối cảnh số hóa y tế đến năm 2030.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Theo thống kê trong giai đoạn từ 2013 – 2023 cho thấy độ tuổi kết hôn trung bình của người dân đang có xu hướng tăng(1). Vì vậy, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi này tại Việt Nam. Bài nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi trong độ tuổi kết hôn của người dân Việt Nam, đồng thời phân tích rõ ảnh hưởng của những nhân tố như trình độ học vấn, nền tảng gia đình, địa lý, chi phí sinh hoạt, thu nhập, nghề nghiệp và truyền thông tới việc trì hoãn kết hôn, thông qua dữ liệu từ cuộc khảo sát gồm 736 người trong độ tuổi từ 18 – 35, trải rộng khắp các vùng miền của Việt Nam. Qua đó, nhóm tác giả nêu lên một số đánh giá về tác động của hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ tới sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sau cùng, nhóm tác giả đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề trì hoãn kết hôn của người trẻ Việt Nam hiện nay.
Bình luận