Cơ chế “chuông cứu hỏa” trong cuộc chiến phòng, chống tham nhũng hiện nay
Bài 1: Người dân khinh ghét tham nhũng nhưng nhiều người còn “khoanh tay đứng nhìn”
Bài 1: Người dân khinh ghét tham nhũng nhưng nhiều người còn “khoanh tay đứng nhìn”
Tại sao lại gọi là cơ chế “chuông cứu hỏa”? Vì người dân chính là nạn nhân của tham nhũng và chính người dân là lực lượng có “trăm tai nghìn mắt” để phát hiện tham nhũng. Nếu Đảng, Nhà nước có cơ chế phát huy vai trò của người dân, đề ra một quy trình hoạt động dựa trên các thủ tục, quy định, luật lệ giúp người dân dễ dàng tham gia PCTN, đó sẽ là những chiếc chuông phát tín hiệu báo “cháy” kịp thời, chính xác nhất.
Có thể khẳng định, từ trong bản chất, Đảng ta, nhân dân ta rất khinh ghét tham nhũng. Chưa bao giờ, công tác PCTN được Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo mạnh mẽ, đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả như nhiệm kỳ XII của Đảng; tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn. Nhưng thành công chỉ là bước đầu, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”. Tình trạng “trên nóng dưới lạnh”, mà cụ thể là công tác PCTN ở một số địa phương, bộ, ngành chuyển biến chưa rõ rệt. Việc phát hiện, xử lý tham nhũng vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là việc kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng trong nội bộ cơ quan, đơn vị còn yếu; tình trạng tham nhũng trong khu vực hành chính, dịch vụ công chưa được đẩy lùi.
Câu hỏi đặt ra là: Tại sao Đảng và toàn bộ hệ thống chính trị đã vào cuộc với quyết tâm chính trị cao độ như vậy mà công tác PCTN vẫn chưa đạt kết quả tương xứng? Trước đây, chúng ta vẫn nêu lý do cơ chế PCTN chưa hoàn thiện. Nhưng giai đoạn 2013-2020 vừa qua, chúng ta đã chứng kiến nỗ lực rất lớn để hoàn thiện cơ chế PCTN của cả hệ thống chính trị. Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cơ quan tham mưu của Đảng đã ban hành hơn 200 văn bản về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và PCTN; Quốc hội khóa XIII và XIV ban hành hơn 250 luật, pháp lệnh, nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hơn 2.600 nghị định, quyết định, chỉ thị; cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương ban hành hơn 45.000 văn bản; các bộ, ngành, địa phương ban hành gần 88.000 văn bản để cụ thể hóa, hướng dẫn thi hành, tổ chức thực hiện PCTN.
Rõ ràng, thể chế PCTN của chúng ta tương đối đầy đủ, bộ máy (thanh tra, kiểm tra, nội chính, công an, viện kiểm sát, tòa án...) PCTN từ bên trong rất mạnh mẽ, hùng hậu. Vậy nhưng, điểm cốt lõi là phát hiện tham nhũng để xử lý thì chưa nhiều. Số lượng các cuộc họp bàn về PCTN ở các cấp gấp rất nhiều lần số vụ việc tham nhũng được phát hiện, xử lý. Trong đó, số vụ việc tham nhũng do nội bộ các cơ quan công quyền tự phát hiện thông qua tự kiểm tra, tự phê bình và phê bình hầu như không có. Hầu hết các vụ tham nhũng là do người dân và báo chí phản ánh, tố giác. Như vậy, xét đến cùng, người dân là lực lượng nòng cốt, chủ yếu phát hiện ra tham nhũng.

Ảnh minh họa. Nguồn: tuyengiao.vn.
Thực tế cho thấy, tham nhũng là một “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực, rất khó chống và khủng khiếp hơn, nó có thể tự thích nghi với các nỗ lực đánh bại nó. Điều quan trọng nhất của công tác PCTN hiện nay là chúng ta chưa thực sự huy động được sức mạnh của quần chúng nhân dân. Nhân dân ta rất khinh ghét tham nhũng nhưng các cuộc khảo sát cho thấy, người dân không mặn mà với công tác chống tham nhũng mặc cho các cơ quan có trách nhiệm ra sức tuyên truyền, vận động, kêu gọi. Số người dân sẵn sàng tham gia tố cáo tham nhũng vẫn còn rất khiêm tốn.
Một cuộc khảo sát được thực hiện ở các thành phố lớn, với câu hỏi “Lý do để không tố cáo tham nhũng” thì có 68% người được hỏi trả lời là do không xác định được hành vi tham nhũng, 14% nghĩ rằng không có hiệu quả; 5% không biết quy trình; 5% sợ không đủ biện pháp bảo vệ và các lý do khác là 8%. Ông Jairo Acuna, cố vấn chính sách của Liên hợp quốc tại Việt Nam cho biết, một nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy có hơn 85% cán bộ, công chức và gần 80% người làm trong doanh nghiệp khi được hỏi đều trả lời rằng họ không quan tâm đến tố cáo tham nhũng(1).
Một khảo sát khác của Tổ chức Minh bạch quốc tế về quan điểm của người dân Việt Nam đối với tham nhũng thì chỉ có 38% số người được hỏi sẵn sàng tố cáo tham nhũng; 51% người dân sợ rằng tố cáo tham nhũng không thay đổi được gì và 28% sợ phải gánh chịu hậu quả(2). Một báo cáo của dự án chống tham nhũng của Ban Nội chính Trung ương thì mức độ phát hiện các vụ tham nhũng ở nước ta chỉ khoảng 5%(3).
Tham nhũng được Đảng ta xác định là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ từ hội nghị giữa nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (tháng 1.1994). Như vậy, tính từ thời điểm đó, đã có gần 30 năm chúng ta tiến hành cuộc chiến PCTN nhưng mới chỉ giành được thắng lợi bước đầu. Tại sao người dân lại chưa mặn mà, chưa sẵn lòng tự giác tham gia chống lại một thứ “giặc” mà nhân dân ngàn đời khinh ghét như vậy?
Nguyên nhân trước hết phải tìm từ văn hóa xử thế truyền thống của người Việt Nam. Trải qua nhiều hoạn nạn binh đao trong các cuộc chiến tranh giành và giữ nước, người dân quen với triết lý sống cầu an, ngại va chạm chốn công đường, đề cao "3 không": “Không nhìn, không nghe, không nói”, “mũ ni che tai” nhằm bảo toàn bình yên cho cá nhân và gia đình, dòng họ. Khinh ghét tham nhũng, họ gửi gắm vào ca dao, hò vè, tục ngữ để tự ru ngủ chính mình chứ không dám có hành động đấu tranh thực tế. Đặc biệt, ảnh hưởng từ nếp sống, nếp nghĩ phong kiến vẫn còn dai dẳng; tư duy “vô phúc đáo tụng đình”, thành kiến với những người hay thưa kiện chi phối không chỉ người dân mà cả tầng lớp trí thức.
Nguyên nhân kinh tế cũng là rào cản rất lớn đến hành động chống tham nhũng của người dân. Chi phí cho một vụ tố giác tham nhũng không hề nhỏ trong khi Việt Nam vẫn là nước thu nhập trung bình thấp, phần lớn người dân vẫn sống trong điều kiện “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Kinh tế khó khăn buộc mỗi công dân phải tính toán giữa việc được và mất khi tố giác tham nhũng; thậm chí nhiều người không có thời gian, công sức, tiền bạc để nghĩ đến việc chống tham nhũng. Cùng với đó là tâm lý “ăn theo”, tức là ai cũng muốn chống tham nhũng nhưng không ai chịu ra mặt, không muốn chi phí vào việc chống tham nhũng.
Đa số người dân không chịu “vác tù và hàng tổng” mà muốn “khoanh tay đứng nhìn”, thay vì phải hành động thì ai cũng chờ đợi người khác làm. Khó khăn về kinh tế cũng khiến không ít người sẵn lòng đánh đổi, bị “quan tham” mua chuộc bằng lợi ích vật chất để đổi lại sự im lặng, cho qua; có những vụ mà cơ quan chức năng đã khởi tố, điều tra thì “quan tham” vẫn có thể “dàn xếp” với nhân chứng hoặc người phản ánh, tố cáo theo phương châm “cái gì không mua được bằng tiền thì mua được bằng rất nhiều tiền”.
Tư tưởng cục bộ, bản vị trong mỗi công dân cũng là “kẻ thù” của cộng đồng. Ai cũng khinh ghét tham nhũng nhưng lại sẵn sàng làm người hối lộ, nhằm “được việc” cho cá nhân mình. Cha mẹ sẵn sàng “chạy điểm, chạy trường” cho con. Người vi phạm giao thông sẵn sàng chi tiền cho lực lượng chức năng để được cho qua chứ không muốn đến kho bạc nộp phạt. Người nhà chủ động “lót tay” để bác sĩ “quan tâm” đến bệnh nhân. Doanh nghiệp thường xuyên “phong bao” cho công chức, viên chức khi thực hiện thủ tục hành chính...
Những hành vi đó lặp đi lặp lại, càng ngày càng phổ biến, ăn sâu bén rễ thành "văn hóa phong bì", "văn hóa bôi trơn" dần dần nuôi dưỡng văn hóa tham nhũng và gây ra tác hại to lớn cho cộng đồng; làm xô lệch giá trị, chuẩn mực xã hội, khiến con người vô cảm trước sự thoái hóa đạo đức, chấp nhận “sống chung với tham nhũng”; mặt khác, nó kích thích một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức sa vào con đường tham nhũng, không còn thấy xấu hổ, không còn ngượng ngùng khi tham nhũng, coi đó như là sự hiển nhiên, kể cả những người lúc đầu còn lo lắng đến nhân cách bản thân, đến đạo lý và sự tồn vong của Đảng, của chế độ.
Rào cản thứ tư ngăn người dân tham gia PCTN là tình trạng thiếu thông tin. Muốn phản ánh, tố giác, tố cáo tham nhũng đòi hỏi người dân phải có thông tin thật đầy đủ. Nhưng trong tình hình hiện nay, để có thông tin đầy đủ chứng minh hành vi tham nhũng là rất khó khăn. Người dân tuy đông, tuy là chủ thể quyền lực nhà nước nhưng không có quyền điều hành trực tiếp và khó tiếp cận các nguồn thông tin. Ngay trong nội bộ các cơ quan công quyền cũng vậy, nhân viên, quần chúng khó lòng biết các thông tin nội bộ về tình hình tài chính, kinh tế của cơ quan mà lẽ ra họ có quyền được biết. Trong khi đó, cán bộ, người có chức, có quyền lại là người nắm rõ thông tin, thậm chí độc quyền thông tin trong lĩnh vực mình quản lý. Do vậy, tình trạng “biết nhưng không thấy” dẫn quần chúng nhân dân đến tình trạng không đủ thông tin để đấu tranh PCTN.
Rào cản lớn nhất ngăn người dân PCTN là, người tham nhũng là người nắm giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Họ nắm trong tay các công cụ cưỡng chế hợp pháp, trong khi người dân có rất ít công cụ, phương tiện khi đối đầu với quan chức tham nhũng. Khi người dân tố giác, người có quyền lực sẽ không từ một thủ đoạn nào để bảo vệ bản thân, sử dụng tối đa quyền lực, các công cụ cưỡng chế và những thế lực có trong tay để đối phó, chế áp những người dám tố giác họ.
Đặc biệt, tham nhũng lớn thường liên kết lợi ích nhóm chặt chẽ, cơ chế “bảo vệ lẫn nhau”, “chung hội chung thuyền”, rất khó phá vỡ. Trong khi sự liên kết giữa những người dân chống tham nhũng rất lỏng lẻo, dễ vỡ, dễ bị phân hóa, “chia để trị”. Đáng sợ hơn là hiện tượng bảo kê, bao che cho cán bộ, đảng viên vi phạm và tham nhũng ngay trong các cơ quan, đơn vị PCTN mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác PCTN giai đoạn 2013 - 2020 (tháng 12.2020)./.
(còn nữa)
_______________________________________
(1) Hà Hồng Hà (2017), Tham nhũng, mưu mô và trừng phạt, Nxb. CTQG Sự thật, tr.146.
(2), (3) TS Trịnh Thị Xuyến (chủ biên) (2014), Cơ chế tham gia của người dân trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Nxb. CTQG, tr.148, 192.
Nguồn: Bài đăng trên Báo Quân đội nhân dân điện tử ngày 15.4.2021
Bài liên quan
- Bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai và ý nghĩa đối với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên
- Định hướng xử lý thông tin sai lệch, xuyên tạc trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận ở Việt Nam hiện nay
- Đảng Cộng sản Việt Nam - Nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Xem nhiều
-
1
Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương thăm và làm việc tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
-
2
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương làm việc với Tỉnh ủy Hà Tĩnh
-
3
Mạch nguồn số 3: Tháng Năm nhớ Bác
-
4
Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Hội nghị Quân chính toàn quân 6 tháng đầu năm 2022
-
5
Đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương tri ân các anh hùng liệt sỹ và tặng quà người có công ở Hà Tĩnh
-
6
"Quan tâm, chăm sóc các đồng chí thương binh, bệnh binh, thân nhân gia đình liệt sĩ và người có công với đất nước luôn là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta"
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- TẠP CHÍ NGƯỜI LÀM BÁO
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- THƯ VIỆN SỐ HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương làm việc với Tỉnh ủy Hà Tĩnh
Chiều ngày 22.7.2022, thực hiện kế hoạch công tác tại Hà Tĩnh, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương cùng Đoàn công tác đã có buổi làm việc với Tỉnh ủy tỉnh Hà Tĩnh về tình hình, kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Kết luận Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khóa XIII); công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và triển khai Quy định số 11-QĐ/TW của Ban Bí thư.
Phê phán luận điệu xuyên tạc về tính khoa học, tính cách mạng của chủ nghĩa duy vật lịch sử
Phê phán luận điệu xuyên tạc về tính khoa học, tính cách mạng của chủ nghĩa duy vật lịch sử
Sau sự kiện chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, có rất nhiều luận điệu xuyên tạc, bác bỏ nhiều vấn đề lý luận trong quan niệm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, như lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp, nhà nước và cách mạng xã hội... Những luận điệu này không có căn cứ khoa học, thiếu cơ sở thực tiễn nên cần phải phê phán, bác bỏ.
Nhận diện, đấu tranh hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới
Nhận diện, đấu tranh hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới
Những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và sự trưởng thành, lớn mạnh không ngừng của Đảng, đặc biệt là “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử” sau hơn 35 năm đổi mới đất nước là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố. Song yếu tố giữ vai trò quyết định hàng đầu là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng với đường lối chính trị độc lập, tự chủ, luôn kiên định, lý tưởng mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trung thành, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Đấu tranh chống luận điệu “Quân đội không cần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”
Đấu tranh chống luận điệu “Quân đội không cần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”
Các thế lực thù địch sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, tiến hành nhiều thủ đoạn, nhiều hướng tấn công theo phương châm đánh “mềm, ngầm, sâu” trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và tác động đến mọi đối tượng bằng con đường kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm suy yếu nội bộ của chúng ta. Trong đó có âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội với luận điểm kích động: “Quân đội không cần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội".
Phản bác quan điểm sai trái, xuyên tạc “Tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác-Lênin”
Phản bác quan điểm sai trái, xuyên tạc “Tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác-Lênin”
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời minh chứng rằng, nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn đường, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập dân tộc và đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Bình luận