Bài học về nghệ thuật chỉ đạo tác chiến chiến lược của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Chiến dịch Điện Biên Phủ
Bước vào Thu - Đông năm 1953 để cứu vãn tình thế thất bại ở Đông Dương, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đã cho ra đời Kế hoạch Nava tăng viện lớn về binh lực và chi phí chiến tranh với mưu toan trong vòng 18 tháng sẽ tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, kiểm soát lãnh thổ Việt Nam và bình định cả Nam Đông Dương. Kế hoạch Nava là kế hoạch chung, là nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ nhằm giành lại thế chủ động có tính quyết định về quân sự trên chiến trường, làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có lợi cho chúng. Để đạt được mục tiêu đó, Pháp và Mỹ đã lập kế hoạch đến năm 1954 quân chủ lực Pháp sẽ lên tới 7 sư đoàn cơ động chiến lược, với 27 binh đoàn được trang bị hiện đại tạo thành quả đấm thép trên chiến trường Việt Nam và Đông Dương.
Để có thể tạo nên ưu thế và giành quyền chủ động chiến lược, địch ra sức tăng cường lực lượng và vũ khí trang bị. Với nhiều biện pháp tích cực, chúng đã nhanh chóng mở rộng được khối ngụy quân từ 91 tiểu đoàn lên tới 182 tiểu đoàn. Đồng thời, rút bỏ một số đồn bốt quá phân tán cô lập, xin thêm 9 tiểu đoàn Âu-Phi từ Pháp và Triều Tiên sang. Tổng số quân của địch lúc này đã lên tới gần nửa triệu. Địch đã tổ chức được một khối quân cơ động chiến lược khá lớn, gồm 86 tiểu đoàn ứng chiến. Đó cũng là cái then chốt trong toàn bộ kế hoạch của Nava.
Với ta, vấn đề đặt ra là làm thế nào tiếp tục giữ vững thế chủ động, tích cực tấn công địch, để tiến tới một trận quyết chiến chiến lược tại Điện Biên Phủ trong điều kiện hoàn toàn có lợi cho ta, giành lấy thắng lợi có tính chất quyết định cho cuộc kháng chiến. Đó cũng là vấn đề then chốt trong sự chỉ đạo chiến lược của Đảng ta và của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc bấy giờ.
Với tầm nhìn chiến lược, Trung ương Đảng đã tổ chức và chỉ đạo một loạt hoạt động để chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược này, buộc địch phải giam chân một bộ phận lực lượng quan trọng ở Điện Biên Phủ. Trước hết, ta bao vây mà không đánh, sau đó tổ chức nghi binh chiến dịch ở các hướng khác, khiến địch phán đoán sai lạc ý định của ta: do đó, tuy chúng lo ngại Điện Biên Phủ bị tấn công, nhưng vẫn không kiên quyết rút bỏ. Thêm vào đó, vì chủ quan, kiêu căng, cho là ta không dám đánh, địch đã trót tuyên truyền quá sớm một cách tự đắc về sự vững chắc của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, coi đó là một địa điểm rất “lý tưởng”, để nhử chủ lực ta đến cho chúng tiêu diệt, nên địch đã gây nhiều ảo tưởng không những đối với quân xâm lược Pháp mà còn đối với tất cả các đồng minh của Pháp - Mỹ. “Tất cả mọi người từ binh lính đến sĩ quan đều coi cái chiến trường được chuẩn bị sẵn đó như một nơi mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp lần đầu tiên tạo điều kiện cho chúng ta bẻ gãy những đại đoàn chính quy của ông ta, nếu ông ta tấn công”(1). Đến khi biết quân ta tập trung lực lượng tấn công Điện Biên Phủ, địch cũng buộc phải hạ quyết tâm không để mất Điện Biên Phủ. Nhưng trước những hoạt động mạnh mẽ của quân ta trên các chiến trường phối hợp, hai phần ba lực lượng cơ động của địch đã phải phân tán để đối phó. Trong điều kiện binh lực phân tán, Nava đã phải dốc toàn lực, cố gắng tăng cường cho Điện Biên Phủ. Hàng chục tiểu đoàn ứng chiến tinh nhuệ nhất đã được tập trung tại đây, hình thành một mục tiêu rất lớn cho quân ta thực hành quyết chiến chiến lược. Quá trình phát triển của chiến dịch Đông Xuân đã làm cho Điện Biên Phủ trở thành trung tâm của kế hoạch Nava là hoàn toàn bị động và chịu sự điều khiển của ta.
Điện Biên Phủ là một Tập đoàn cứ điểm rất lớn, gồm 49 cứ điểm cùng với một lực lượng chiếm đóng rất mạnh, gồm 20 tiểu đoàn quân tinh nhuệ. Địch lại chiếm ưu thế tuyệt đối về không quân. Trong khi đó, trình độ tác chiến công kiên của quân ta tuy đã có những bước trưởng thành đáng kể, nhưng mới đánh được những cứ điểm với binh lực lớn nhất là một tiểu đoàn, kinh nghiệm về đánh tập đoàn cứ điểm, đánh trận địa về ban ngày còn rất ít. Về hỏa lực, ta vẫn còn thua kém địch. Điện Biên Phủ lại là một vị trí nằm lọt giữa những dãy núi rừng hiểm trở của Tây Bắc, đường ra vào không thuận tiện, vấn đề đưa binh lực vào trận địa sẽ gặp nhiều khó khăn rất lớn, nhất là lại phải tiến hành dưới sự uy hiếp của không quân địch.
Kẻ địch đã nói rất nhiều đến những khó khăn đó: “Việt Minh không thể dùng trọng pháo ở đó với số lượng quan trọng do những khó khăn về vận chuyển”(2). “Việt Minh phải đặt pháo ở trên những sườn núi đổ xuống phía trong lòng chảo Điện Biên ... nhưng điều đó lại không thể thực hiện được, vì những khẩu pháo đó sẽ bị phát hiện từ khi chúng đang được kéo vào từ vị trí”(3). Với lực lượng rất lớn mạnh và sức phòng thủ rất vững chắc, địch tin rằng quân ta sẽ không thể nào đánh nổi. Chúng đã khẳng định với nhau một cách đắc chí: “Một khi chúng ta đã ở Điện Biên Phủ, chúng ta sẽ làm cho cái lòng chảo ấy trở thành một bãi chiến trường, tại đấy chúng ta có thể bẻ gãy bọn Việt Minh” và “chúng ta sẽ cho họ biết tay”, “họ cứ việc đến, họ sẽ biết được chúng ta giành cho họ cái gì!”(4).
Trước tình hình đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định, Điện Biên Phủ là một vị trí xây dựng giữa vùng rừng núi rộng lớn. Trên chiến trường này ưu thế không quân và pháo binh của địch sẽ không phát huy được đầy đủ. Trên chiến trường này ta có thể lợi dụng địa hình thuận lợi, đưa binh lực vào tận nơi để bao vây tấn công địch cả ban đêm lẫn ban ngày. Điện Biên Phủ đứng trong thế hoàn toàn bị cô lập, cách xa hậu phương cung cấp của địch hàng mấy trăm cây số, tuyến giao thông tiếp tế duy nhất của chúng phải dựa vào hàng không. Tình trạng đó dễ làm cho địch phải lâm vào thế bị động phòng ngự. Lực lượng địch tuy mạnh nhưng chỉ có hạn; nếu ta đẩy mạnh các hoạt động phối hợp tác chiến trên các chiến trường thì dù địch có dốc hết mọi cố gắng, khả năng tăng viện cũng chỉ đạt được tới mức nhất định. Còn ta, với những đại đoàn chủ lực tinh nhuệ, ta có thể tập trung được ưu thế binh lực. Trình độ tác chiến của bộ đội ta tuy còn thấp hơn so với yêu cầu, nhưng vừa trải qua nhiều chiến dịch thắng lợi, nên đã có những bước trưởng thành về chiến đấu công kiên, nhất là đã được qua chỉnh huấn. Đó là cơ sở để đẩy trình độ tác chiến của ta lên kịp với yêu cầu của trận chiến đấu mới. Ta lại có hậu phương rộng lớn vừa được giải phóng có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ các tầng lớp nông dân trong vùng tự do cũng như vùng tạm bị chiếm.
Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ không những ghi vào lịch sử dân tộc ta như một mốc son rực sáng nhất trong thế kỷ XX mà còn là nét nổi bật và đặc sắc nhất về nghệ thuật chỉ đạo tác chiến chiến lược của Đảng ta và của Chủ tịch Hồ Chí Minh tạo và nắm thời cơ giành thắng lợi quyết định trong trận quyết chiến chiến lược.
Một là, nghệ thuật tạo và nắm thời cơ giành thắng lợi quyết định trong trận quyết chiến chiến lược. Chiến dịch Điện Biên Phủ đã mang đầy đủ những nét độc đáo, sáng tạo và đánh dấu bước phát triển vượt bậc của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta. Bước vào Chiến cuộc Đông -Xuân 1953-1954, ta chủ động nắm chắc âm mưu và thủ đoạn mới của địch, Trung ương, Bộ Chính trị và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội ta đã quyết định mở nhiều hướng tiến công chiến lược lên hướng Tây Bắc. Khi tướng Nava và bộ chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp cho quân ồ ạt nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, ta chuyển hướng chiến lược tiến hành bao vây Điện Biên Phủ, buộc bộ chỉ huy quân Pháp phải điều động hầu hết lực lượng chủ lực ra tăng cường. Cùng với việc tiến công lên Tây Bắc, ta tạo thế bất ngờ, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch; đồng thời chọn và nắm thời cơ khi địch sơ hở, nơi địch tương đối yếu mà đánh, kiên quyết buộc địch phải phân tán, bị động đối phó, ta kết hợp tiêu diệt sinh lực địch, vừa đánh địch, vừa bồi dưỡng lực lượng ta. Theo phương hướng chiến lược và tư tưởng chỉ đạo tác chiến chiến lược đã được xác định, ta sử dụng một số đơn vị chủ lực nhỏ, tinh nhuệ mở các cuộc tiến công trên các hướng quan trọng đánh vào các nơi địch mỏng yếu, có nhiều sơ hở, nhưng lại có vị trí chiến lược mà địch không thể bỏ qua. Đó là Tây Bắc, Trung Lào, Hạ Lào, Đông Bắc Campuchia, Bắc Tây Nguyên, Thượng Lào,... Trước nguy cơ bị uy hiếp ở những hướng, những khu vực chiến lược, buộc địch phải phân tán điều động tới 70 tiểu đoàn trong tổng số 80 tiểu đoàn cơ động ra các chiến trường trên toàn Đông Dương. Ta đã thành công trong việc điều động phân tán địch. Chọn Điện Biên Phủ là chọn hướng, chọn thời cơ, địa bàn mục tiêu chính xác cho cách đánh của quân ta.
Hai là, nét độc đáo, sáng tạo của nghệ thuật chỉ đạo tập trung lực lượng giành thắng lợi trong trận quyết chiến chiến lược . Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của quân đội Pháp ở Đông Dương, hình thức phòng ngự mới xuất hiện vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Đông Dương. Với 49 cứ điểm hình thành ba khu vực phòng ngự liên hoàn, từng cứ điểm có hệ thống lô cốt, chiến hào, hầm ngầm kiên cố với hệ thống hỏa lực mạnh, được tổ chức thành nhiều cụm cứ điểm - “trung tâm đề kháng theo kiểu phức tạp” vừa có khả năng phòng ngự độc lập khá mạnh, vừa tạo thế phòng ngự liên hoàn thành nhiều tầng, nhiều hướng khó chia cắt, tập đoàn cứ điểm còn có sân bay, kho tàng, lại được liên kết chặt chẽ, tổ chức thành ba phân khu: phân khu phía Bắc gồm cứ điểm vòng ngoài là đồi Độc Lập, đồi Bản Kéo, phân khu - Trung tâm Mường Thanh, Điện Biên Phủ; phân khu phía Nam là Hồng Cúm. Ngoài ra, còn có hệ thống hỏa lực mặt đất và trên không rất mạnh, gồm hai tiểu đoàn pháo 105 ly, một đại đội pháo 155 ly, hai đại đội súng cối 120 ly, tổng cộng khoảng 40 nòng pháo và súng cối từ 100 ly trở lên, vì vậy, Điện Biên Phủ được mệnh danh là “Pháo đài bất khả xâm phạm”. Tiến công Điện Biên Phủ sẽ hết sức khó khăn, đòi hỏi Quân đội ta phải tạo được sức mạnh vượt bậc cả về thế và lực mới có thể giành thắng lợi. Lần đầu tiên trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, hơn 55 ngày đêm, ta đã tập trung được một lực lượng hùng mạnh chưa từng có, đạt được ưu thế áp đảo quân địch, ta tổ chức 4 đại đoàn bộ binh chủ lực (304, 308, 312, 316 và 1 đại đoàn sơn pháo). So với các chiến dịch trước đó ta mới chỉ sử dụng từ 1 đến 2 đại đoàn bộ binh, và một đại đoàn công pháo, thì Điện Biên Phủ ta tổ chức, sử dụng và bố trí một lực lượng lớn nhất với chất lượng cao nhất trong toàn bộ cuộc kháng chiến. Trong tác chiến bằng cách tập trung lực lượng, phương tiện, kết hợp chặt chẽ tác chiến giữa bộ đội chủ lực với lực lượng vũ trang địa phương, dân quân, tự vệ đột phá từng cụm cứ điểm của địch. Dựa vào hệ thống trận địa và giao thông hào, từng bước bao vây thắt chặt vòng vây, từ đó ta chuyển hóa thế trận, tạo nên sức mạnh to lớn trong thế trận tiến công địch, tạo được sức mạnh tổng hợp tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Quyết định tiến công Điện Biên Phủ thực hiện đòn quyết chiến chiến lược tại đây không những thể hiện nét đặc sắc của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, tạo và nắm thời cơ đánh vào một cứ điểm mạnh của địch. Tiến công Điện Biên Phủ, ta đã phát huy được sức mạnh, sở trường của ta, hạn chế được sức mạnh, khoét sâu điểm yếu chí tử của địch. Mặc dù Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của quân viễn chinh Pháp, song cách xa hậu phương, dễ bị cô lập, việc ứng cứu chi viện, giải tỏa chỉ tiến hành bằng đường không. Về phía ta, lại phát huy được khả năng về lực lượng, phương tiện do tác chiến ở địa hình rừng núi. Chính Lanien, Thủ tuớng Pháp đã phải thừa nhận: “... Kẻ địch với việc điều quân cơ động tài tình, đã buộc chúng ta (chỉ quân Pháp) phải giao chiến ở Điện Biên Phủ, một cuộc giao tranh với tầm quan trọng như vậy... Bộ chỉ huy đã phạm sai lầm ở chỗ tưởng rằng đã thu hút được địch thủ đến một mặt trận mà ưu thế của chúng ta sẽ bảo đảm thắng lợi, trong khi ngược lại, chính đối phương đã lựa chọn địa thế đó”(5). Quyết định tiến công Điện Biên Phủ là thời cơ thuận lợi để ta tiêu diệt lực lượng lớn quân tinh nhuệ của Pháp trong điều kiện khối cơ động chiến lược của chúng bị phân tán ra nhiều nơi trên khắp chiến trường Đông Dương. Lực lượng vũ trang ba thứ quân của ta, đặc biệt là khối bộ đội chủ lực trải qua hơn tám năm kháng chiến đã không ngừng phát triển và trưởng thành về mọi mặt, cả về lực lượng, kinh nghiệm tác chiến, về trang bị vũ khí, kỹ thuật. Đó chính là thời cơ chiến lược để ta bước vào trận đánh quyết định giành thắng lợi trọn vẹn.
Ba là, linh hoạt thay đổi phương châm tác chiến, thực hiện “đánh chắc, tiến chắc”. Khi biết âm mưu của Pháp tập trung quân ở Điện Biên Phủ, ban đầu Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: đây tuy là mưu đồ của địch, nhưng cũng là thời cơ cho ta tập trung binh lực, hỏa lực để tiêu diệt lớn quân địch, kết thúc chiến tranh. Tác chiến trên địa bàn này, ta tuy có những khó khăn nhất định, nhưng có thuận lợi cơ bản, đó là: phát huy được sở trường đánh địch ở địa hình rừng núi, địa bàn Chiến dịch tiếp giáp vùng mới giải phóng (Tây Bắc). Đối với địch, có bất lợi: chưa kịp xây dựng, củng cố vững chắc công sự, trận địa, lại xa hậu phương, chỉ có thể tiếp tế bằng đường không; địa thế của “lòng chảo Điện Biên” lại thấp.
Tuy nhiên, Bộ Tư lệnh Chiến dịch sớm nhận thấy địch đã củng cố, xây dựng nơi đây thành tập đoàn cứ điểm mạnh nên ta không thể “đánh nhanh, giải quyết nhanh” như đã xác định. Vì thế, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã kịp thời chuyển phương châm tác chiến chiến dịch sang “đánh chắc, tiến chắc”. Chủ trương trên của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, nhưng cũng là một quyết định rất khó khăn về mặt tư tưởng đối với bộ đội, nhất là trong điều kiện lực lượng ta đã áp sát mục tiêu tiến công lại phải dừng lại để rút ra chuẩn bị kỹ hơn về: vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, thuốc men và cách đánh. Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng của trận quyết chiến chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp trước khi lên đường đi Chiến dịch: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Đánh chắc thắng, không chắc thắng không đánh”(6). Cuộc đấu trí, đấu lực cả trước và trong Chiến dịch Điện Biên Phủ với phần thắng thuộc về quân và dân ta đã chứng minh sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây chính là nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả nước đánh thắng đội quân xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp và buộc chúng không có lựa chọn nào khác là phải ký Hiệp định Giơnevơ, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương.
Đánh chắc, tiến chắc ở Điện Biên Phủ được thực hiện theo lối đánh gần độc đáo. Đây là cách đánh theo thế trận chiến tranh nhân dân - thế trận bố trí xen kẽ, và kết hợp tác chiến của bộ đội chủ lực với lực lượng vũ trang địa phương, dân quân tự vệ trong tác chiến chiến dịch. Nét đặc sắc của lối đánh chắc, tiến chắc là lối đánh gần độc đáo ở Điện Biên Phủ là vây, lấn, tấn, diệt, chia cắt quân địch để có điều kiện tiêu diệt nhiều sinh lực của chúng. Nét độc đáo của cách đánh gần ở Điện Biên Phủ còn là nghệ thuật chỉ đạo tiến công tiêu diệt từng bộ phận quân địch, đập vỡ tiếp từng cứ điểm phòng ngự của chúng tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Thành công đặc biệt xuất sắc trong nghệ thuật chỉ đạo tập trung lực lượng cho chiến dịch Điện Biên Phủ là tổ chức cơ động các binh đoàn chủ lực đến địa điểm tập kết chiến dịch đúng thời gian, thời điểm để hội quân với các lực lượng tại chỗ hình thành thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, với những quả đấm mạnh của các đại đoàn chủ lực trên các hướng tiến công đã tạo nên ưu thế trong những thời điểm và địa điểm có lợi, giành thắng lợi trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Với thắng lợi ở Điện Biên Phủ, quân và dân ta đã đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp, buộc Pháp phải rút quân về nước, chấm dứt chiến tranh xâm lược phi nghĩa, tàn bạo ở Việt Nam và Đông Dương.
Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954, đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ đập tan kế hoạch Nava, cũng là cố gắng chiến tranh cao nhất, cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ, đánh bại ý chí xâm lược của Pháp, đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đấu tranh ngoại giao của Chính phủ ta, buộc Pháp phải ký hiệp định Giơnevơ rút hết quân về nước, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài ở Đông Dương.
Chiến thắng Điện biên Phủ mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, đánh dấu bước phát triển mới trong chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam nói riêng, nhân dân thế giới nói chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
_________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 5.201
(1), (4) Báo thế giới, Pari, ngày 15.2.1954.
(2), (3) Âm mưu của đế quốc Pháp - Mỹ trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Nxb Sử học, Hà Nội, 1963, tr.36, 37.
(5) Việt Nam - Điện Biên Phủ, Bản anh hùng ca thời đại, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.100-103.
(6) Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr.900.
Thượng tướng Trần Đơn
Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn
Bài liên quan
- Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
- Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
- Tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp cận từ góc độ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Việt Nam - Cuba là biểu tượng sáng ngời về tình đoàn kết hữu nghị quốc tế. Hai dân tộc đã sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tình hữu nghị đặc biệt này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Fidel Castro vun đắp qua nhiều thế hệ và trở thành một tài sản vô giá của cả hai dân tộc.
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta đã phải đương đầu với nạn “thù trong, giặc ngoài”, ở cả 2 miền Nam, Bắc vấn đề về xung đột dân tộc trở thành tâm điểm có nguy cơ gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của nhà nước cách mạng non trẻ. Với trí tuệ uyên bác, sự lãnh đạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vấn đề tưởng chừng hết sức phức tạp ấy lại được Người khéo léo giải quyết thành công, đem lại bài học có giá trị cách mạng sâu sắc về công tác dân tộc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất, Người đã để lại di sản quý báu về tư tưởng, đạo đức, phong cách cho Đảng và Nhân dân ta. Di sản Hồ Chí Minh bao quát rộng lớn các vấn đề của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến lời dạy của Người trong Thư gửi “Quân nhân học báo” tháng 4/1949: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”(1) là vấn đề có ý nghĩa thời sự đối với việc nghiên cứu, học tập của cán bộ, đảng viên nói chung, giảng viên làm công tác giảng dạy lý luận chính trị nói riêng hiện nay.
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử đặc biệt, có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn, hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc về xây dựng Đảng cầm quyền, đặc biệt là vấn đề thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Trải qua 55 năm, di huấn của Người về vấn đề này vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và thời đại.
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Suy ngẫm tư tưởng Hồ Chí Minh về “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” và nghiên cứu Điều 3 Quy định số 144 để thấy được bước phát triển của Đảng về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.
Bình luận