Báo chí Việt Nam: Giải bài toán kinh tế - công nghệ trong bối cảnh chuyển đổi số
Tọa đàm có sự tham dự của khách mời là các chuyên gia, nhà nghiên cứu và đại diện một số cơ quan báo chí trong nước.
Phát biểu khai mạc tọa đàm, ông Trần Tiến Duẩn, Tổng Biên tập Báo điện tử VietnamPlus cho biết, hơn hai năm đại dịch đã khiến nhiều ngành nghề, trong đó có báo chí, gặp nhiều khó khăn. Nhưng trên thực tế, những khó khăn này đã xuất hiện từ trước đó.
Năm 2017, khi sang chia sẻ kinh nghiệm tại TTXVN, chuyên gia của Hiệp hội Báo chí và các Nhà xuất bản tin tức Thế giới (WAN-IFRA) Bernt Olufsen, cựu Tổng Biên tập tờ Verdens Gang của Na Uy, đã từng nói rằng, sự phát triển của khoa học công nghệ đã giúp ích nhiều cho cuộc sống, nhưng mặt trái của nó lại khiến chúng ta không thể lường hết được và báo chí đang phải đối mặt với nguy cơ sống còn.
Viện Nghiên cứu báo chí của Reuters cho biết, truyền thông đang ở giai đoạn web 3.0, khi người dùng Internet cũng có thể tự tạo ra nội dung và tự kiếm tiền, còn những nền tảng báo chí truyền thống lại đang mất dần độc giả.
Trong bối cảnh đó, các cơ quan báo chí đã đẩy mạnh công cuộc chuyển đổi số, trực tiếp đi tìm độc giả ở các nền tảng số, phát triển các mô hình kinh doanh mới mẻ. Tại giải thưởng báo chí thường niên ở từng khu vực, WAN-FRA cũng đã lập ra một hạng mục mới là “Đa dạng hóa nguồn thu” nhằm khuyến khích các tòa soạn đổi mới sáng tạo.
Ở trong nước, để tăng nguồn thu, một số tòa soạn báo chí đã đẩy mạnh mô hình tổ chức sự kiện, tối ưu hóa quảng cáo kỹ thuật số trên báo điện tử, thực hiện các gói dịch vụ thông tin cho các doanh nghiệp, đăng ký trả phí...
"Chính vì vậy, tọa đàm "Mô hình kinh doanh báo chí: Lựa chọn nào cho Việt Nam" sẽ mang tính chất gợi mở, giải quyết một trong những bài toán khó nhất đối với báo chí trong giai đoạn hiện nay. Những ý kiến, ý tưởng cũng như kinh nghiệm thực tế của các chuyên gia, nhà nghiên cứu sẽ góp phần giúp các tòa soạn tìm ra hướng đi phù hợp nhất, vừa giải được bài toán kinh tế, vừa giải được bài toán công nghệ trong giai đoạn chuyển đổi số”", ông Trần Tiến Duẩn chia sẻ.
Báo cáo tổng kết năm 2021 của WAN-IFRA cho thấy, những mô hình như tổ chức sự kiện, spin-off (tạm dịch là liên kết xuất bản), thương mại điện tử, kinh doanh dữ liệu… là những hình thức có thể giúp các tòa soạn tối đa hóa nguồn thu từ hoạt động báo chí của mình.
Cuốn Sáng tạo báo chí do Mạng lưới truyền thông quốc tế FIPP phát hành thường niên (được TTXVN xuất bản tại Việt Nam) cũng luôn cập nhật những mô hình kinh doanh mới, phân tích ưu thế cũng như trở ngại mà các tòa soạn gặp phải khi áp dụng những mô hình ấy.
Tại tọa đàm, nhiều đại biểu đã có những ý kiến chia sẻ kinh nghiệm, giải pháp để đa dạng nguồn thu cho báo chí Việt Nam trong giai đoạn kỷ nguyên số như hiện nay.
Bà Hoàng Thủy Chung, nguyên Phó Tổng Biên tập Thời báo Kinh tế Việt Nam nhận định, tổ chức sự kiện là mảng quan trọng mà gần đây các cơ quan báo chí đều cố gắng xây dựng bên cạnh những sản phẩm lõi về nội dung. Những hoạt động sự kiện giúp làm giàu hơn hệ sinh thái của các cơ quan báo chí, làm thương hiệu tốt, tiếp cận độc giả tốt hơn và mang lại doanh thu đáng kể.
Báo cáo của WAN-IFRA cho thấy, trong khi lợi nhuận từ quảng cáo kỹ thuật số, từ độc giả số đang tăng thì lợi nhuận từ quảng cáo truyền thống lẫn khu vực phát hành báo in tiếp tục giảm sâu. Chính vì vậy, báo chí cần đẩy mạnh việc chuyển đổi số, tận dụng những công nghệ, công cụ hiện đại… để tăng nguồn thu cho mình.
Cụ thể, các cơ quan báo chí cần tiến hành thu thập dữ liệu độc giả, không chỉ đơn giản là hiểu được độc giả của mình là ai, mà còn nhằm khai thác những tiềm năng của nguồn tài nguyên mới quan trọng nhất trong thế kỷ XXI - tài nguyên dữ liệu.
Theo bà Hoàng Thủy Chung, việc sử dụng những công cụ hiện đại, sử dụng trí tuệ nhân tạo, nhằm giữ chân và phát triển độc giả trung thành có thể giúp báo chí tăng lợi nhuận từ quảng cáo kỹ thuật số, đồng thời bước vào lĩnh vực mới là thu phí bạn đọc. Cả WAN-IFRA, Viện nghiên cứu báo chí Reuters lẫn FIPP đều coi đây mới là nguồn thu mang tính bền vững của báo chí. Mặc dù vậy, đây vẫn là con đường nhiều chông gai đối với báo chí Việt Nam. Những tờ báo đang tiến hành thử nghiệm thu phí độc giả như VietnamPlus, VietnamNet hay tạp chí Ngày Nay đều chưa tạo được sức bật từ mô hình này.
“Cần thiết tạo ra những sản phẩm nội dung có thông điệp mạnh mẽ, cụ thể, tác động đến đối tượng độc giả mục tiêu. Làm như vậy sẽ luôn có doanh nghiệp đồng hành, đồng thời tạo khác biệt và chiều sâu cho mỗi cơ quan báo chí”, bà Hoàng Thủy Chung nhấn mạnh.
Ông Chu Minh Trường, Tổng thư ký tòa soạn tạp chí Nhịp cầu đầu tư chia sẻ kinh nghiệm thành công tại cơ quan báo chí của mình khi cho rằng vì là tạp chí chuyên sâu về kinh doanh, nên ông sẽ tập trung đầu tư cho đối tượng độc giả đặc thù là các doanh nhân. Mô hình mà Nhịp cầu đầu tư kiên định theo đuổi đồng thời đạt được thành công vững chắc là kết hợp giữa phát hành và tổ chức sự kiện, giải thưởng, xuất bản các báo cáo chuyên đề, dữ liệu dành cho doanh nghiệp.
Ông Hoàng Anh Minh, Tổng Biên tập tạp chí VietnamFinance cho rằng, Việt Nam vẫn luôn là một thị trường lớn cho hầu hết mọi loại hình hàng hóa dịch vụ, với lượng bạn đọc trải rộng trên toàn quốc. Dư địa thị trường cho các hoạt động kinh doanh báo chí là rất lớn.
"Với việc sản xuất/xuất bản các sản phẩm có chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của nhóm bạn đọc mà mình đang hướng tới thì việc tìm kiếm nguồn doanh thu từ quảng cáo là khả thi. Trong tương lai, chúng tôi cũng sẽ triển khai các hoạt động tổ chức sự kiện (online) cũng như hình thức thu phí độc giả, khi các điều kiện pháp lý và kỹ thuật cho phép”, ông Hoàng Anh Minh khẳng định./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Người Làm Báo điện tử ngày 16.6.2022
Bài liên quan
- Tác động của truyền thông thương hiệu đến giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại các trường đại học kỹ thuật ở Hà Nội
- Giải pháp tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng facebook của sinh viên hệ 9+
- Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
- Tác động của truyền thông CSR đến niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng hiện nay
- Truyền thông về an ninh mạng tại hệ thống ngân hàng ở Việt Nam trong môi trường chuyển đổi số hiện nay
Xem nhiều
-
1
Xây dựng khung đạo đức và quản trị trí tuệ nhân tạo (AI) trong truyền thông chính sách tại Việt Nam
-
2
Nâng cao năng lực số cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam hiện nay
-
3
Xử lý khủng hoảng của doanh nghiệp sản xuất và phân phối thực phẩm chế biến sẵn tại Việt Nam
-
4
Các xu hướng sáng tạo nội dung truyền thông marketing hiện nay
-
5
Nâng cao chất lượng hoạt động của Đảng ủy phường Yên Bái, tỉnh Lào Cai hiện nay
-
6
Giới thiệu Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 10 năm 2025
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Xử lý khủng hoảng của doanh nghiệp sản xuất và phân phối thực phẩm chế biến sẵn tại Việt Nam
Trong bối cảnh mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, các doanh nghiệp sản xuất và phân phối thực phẩm chế biến sẵn tại Việt Nam đối mặt với nhiều nguy cơ khủng hoảng truyền thông, đặc biệt liên quan đến an toàn thực phẩm và chất lượng dịch vụ. Bài báo này phân tích thực trạng xử lý khủng hoảng của doanh nghiệp trong ngành, dựa trên khung lý thuyết SCCT (Situational Crisis Communication Theory) và IRT (Image Repair Theory); sử dụng phương pháp định tính, tổng hợp tài liệu, phân tích trường hợp điển hình và phỏng vấn chuyên gia. Kết quả cho thấy phần lớn doanh nghiệp phản ứng với khủng hoảng mang tính đối phó, thiếu kế hoạch bài bản, đồng thời, chưa khai thác hiệu quả mạng xã hội như công cụ đối thoại với khách hàng. Bài báo đề xuất một số hàm ý nhằm nâng cao năng lực xử lý khủng hoảng, qua đó góp phần bảo vệ uy tín và phát triển bền vững cho doanh nghiệp thực phẩm chế biến sẵn tại Việt Nam.
Tác động của truyền thông thương hiệu đến giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại các trường đại học kỹ thuật ở Hà Nội
Tác động của truyền thông thương hiệu đến giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại các trường đại học kỹ thuật ở Hà Nội
Trong bối cảnh tự chủ đại học và cạnh tranh tuyển sinh, truyền thông thương hiệu của cơ sở đào tạo không chỉ là quảng bá mà còn là cơ chế kiến tạo trải nghiệm nhất quán cho người học. Bài viết sử dụng khung CBBE (giá trị thương hiệu dựa trên khách hàng) và tiếp cận IMC (truyền thông tích hợp) để mô tả hệ điểm chạm và thảo luận hàm ý tác động tới giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại khối trường kỹ thuật ở Hà Nội. Đóng góp thực tiễn của nghiên cứu là cung cấp căn cứ để các trường kỹ thuật nâng chất lượng truyền thông, mở rộng tiếp cận và bồi dưỡng gắn bó bền vững của sinh viên.
Giải pháp tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng facebook của sinh viên hệ 9+
Giải pháp tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng facebook của sinh viên hệ 9+
Trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia, Facebook không chỉ là không gian giao tiếp mà còn là kênh tiếp nhận và lan tỏa thông tin báo chí quan trọng. Việc nghiên cứu hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng này của sinh viên hệ 9+ - nhóm học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở, đang theo học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, là lực lượng lao động trẻ đang trưởng thành trong môi trường số có ý nghĩa thiết thực: giúp sinh viên nâng cao năng lực chọn lọc, phân tích và phản biện thông tin, hình thành thói quen sử dụng mạng xã hội có trách nhiệm; đồng thời, giúp các cơ quan báo chí hiểu rõ hơn về nhu cầu, thói quen và xu hướng truyền thông của nhóm công chúng trẻ, từ đó, đổi mới nội dung và phương thức truyền thông số, góp phần xây dựng hệ sinh thái thông tin mạnh trong kỷ nguyên số. Bài viết đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng Facebook của sinh viên hệ 9+ hiện nay.
Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, các bệnh viện công (BVC) tại Việt Nam phải đối mặt với những thách thức đặc thù trong quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu (TTTH). Hoạt động này không chỉ nhằm mục đích quảng bá mà còn là công cụ chiến lược để xây dựng niềm tin xã hội và thực thi sứ mệnh y tế cộng đồng. Sử dụng Bệnh viện Nhi Trung ương (BVNTW) làm trường hợp nghiên cứu điển hình, bài viết phân tích thực trạng quản trị hoạt động TTTH trên các phương tiện truyền thông số thông qua khảo sát thực tiễn và phỏng vấn chuyên sâu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, BVNTW đạt được sự cam kết chiến lược mạnh mẽ từ ban lãnh đạo và độ tin cậy cao từ công chúng. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra những mâu thuẫn mang tính hệ thống. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một hệ thống giải pháp chiến lược, bao gồm việc xây dựng khung đo lường hiệu suất đa tầng, tối ưu hóa quy trình theo mức độ rủi ro và quản trị trải nghiệm thương hiệu đồng bộ, nhằm nâng cao hiệu quả quản trị TTTH tại các bệnh viện công.
Tác động của truyền thông CSR đến niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng hiện nay
Tác động của truyền thông CSR đến niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng hiện nay
Bài viết khái quát tác động của truyền thông về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) đối với niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng trong bối cảnh truyền thông số. Dựa trên các khung lý thuyết nền tảng như Lý thuyết trao đổi xã hội (SET), mô hình Kích thích - Tổ chức - Đáp ứng (S - O - R) và Thuyết hành vi có kế hoạch (TPB), bài viết khẳng định, truyền thông CSR, đặc biệt qua báo chí điện tử và nền tảng mạng xã hội, có ảnh hưởng tích cực đến nhận thức, thái độ và hành vi tiêu dùng. Truyền thông CSR nhất quán, minh bạch không chỉ trực tiếp tác động đến ý định mua mà còn gián tiếp thông qua việc củng cố niềm tin thương hiệu, biến trung gian có tính quyết định trong quá trình hình thành hành vi tiêu dùng. Niềm tin thương hiệu được xem như một dạng vốn tâm lý và vốn biểu tượng của doanh nghiệp, giúp giảm thiểu rủi ro cảm nhận, tăng cam kết và duy trì lòng trung thành khách hàng. Dù còn có sự khác biệt trong nhận định của các nhà nghiên cứu nhưng phần lớn đều khẳng định vai trò chiến lược của truyền thông CSR trong việc kiến tạo lợi thế cạnh tranh, nâng cao giá trị thương hiệu và hướng tới phát triển bền vững.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận