Quy trình tổ chức sản xuất chương trình trực tiếp trên kênh Truyền hình Vĩnh Long trong bối cảnh truyền thông số
1. Đặt vấn đề
Chương trình truyền hình trực tiếp là một dạng chương trình truyền hình đặc biệt. Trong lịch sử truyền hình, chương trình truyền hình trực tiếp là một trong ba loại chương trình: chương trình sản xuất bằng băng từ, chương trình sản xuất bằng băng nhựa, chương trình phát trực tiếp. Mỗi thể loại lại có yêu cầu riêng. Với chương trình truyền hình sản xuất bằng băng nhựa thì do chi phí sản xuất cao nên đến nay không còn được sử dụng, chỉ còn hai loại chương trình băng từ và chương trình phát trực tiếp(1).
Trong kỷ nguyên số, truyền hình không còn hoạt động trong một hệ sinh thái phát - thu tuyến tính đơn lẻ. Chiến lược đa nền tảng đã thay đổi cách các doanh nghiệp truyền thông, tổ chức và khai thác nội dung, mở rộng số lượng sản phẩm đầu ra ngay cả khi nguồn lực bị ràng buộc chặt chẽ(2). Sự chuyển dịch này đặc biệt thách thức với THTT - dạng thức sản xuất đòi hỏi mức độ phối hợp tức thời, kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt và an toàn tín hiệu ở mức cao.
Thực tiễn tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình trực tiếp cho thấy yêu cầu mức độ cao trong phối hợp chặt chẽ giữa biên tập - kỹ thuật - truyền dẫn, coi thiết bị như hạ tầng năng lực để tối ưu hiệu quả, thời gian, và môi trường làm việc(3). Trên nền tảng đó, bài báo làm rõ: (i) cơ sở lý luận về tổ chức sản xuất THTT; (ii) phân tích tác động của số hoá, áp dụng công nghệ số vào thực tiễn sản xuất chương trình THTT tại kênh THVL; (iii) đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức sản xuất chương trình THTT theo hướng ưu tiên đa nền tảng.
2. Quan niệm về truyền hình trực tiếp, tổ chức sản xuất chương trình truyền hình trực tiếp và quy trình tổ chức sản xuất
THTT là một dạng chương trình đặc biệt. Trong hệ thống cấu trúc các chương trình truyền hình thì chương trình THTT có vai trò hết sức quan trọng. Tác giả Trần Bảo Khánh, trong tác phẩm Sản xuất chương trình truyền hình có nêu: sản xuất một chương trình truyền hình trực tiếp, có nghĩa là truyền đi một sự kiện tới công chúng ở thời điểm mà nó đang diễn ra là một công việc phức tạp(4).
Stephanie Marriott thì cho rằng: THTT không chỉ là một phương thức kỹ thuật mà là một hình thức giao tiếp xã hội và văn hóa. Nó tạo ra mối liên kết tức thời giữa người xem - người dẫn và sự kiện, dù ở các vị trí địa lý khác nhau. THTT là cách mang con người lại gần nhau qua hình ảnh, tạo cảm giác chúng ta đang cùng nhau sống trong cùng một thời khắc(5).
Daniel Dayan và Elihu Katz nêu: truyền hình trực tiếp là phương tiện truyền tải các sự kiện truyền thông lớn đóng vai trò nghi lễ tập thể, tạo thời khắc mà toàn xã hội cùng hướng mắt về một nơi, chia sẻ một trải nghiệm chung qua truyền hình(6).
Như vậy có thể hiểu, truyền hình trực tiếp là truyền đi những thông tin sự kiện có thật, đang diễn ra, thời gian sản xuất chương trình đồng thời với thời gian tiếp nhận của người xem. Thực hiện chương trình THTT đòi hỏi những người thực hiện phải có kỹ năng phối hợp, biết chắt lọc thông tin, tập trung vào nội dung cốt lõi. Điều này đòi hỏi ekip thực hiện phải áp dụng nhiều thủ thuật làm truyền hình hiện đại, trong đó có thủ thuật montage (dựng phim) một cách tinh tế, khiến chương trình luôn hấp dẫn, sinh động.
Tổ chức sản xuất THTT: Tổ chức sản xuất (TCSX) là một hoạt động quản lý trong quá trình lao động xã hội nhằm phát huy được tối đa các nguồn lực về lực lượng sản xuất, tư liệu sản xuất. Tổ chức sản xuất chương trình truyền hình trực tiếp là công tác tổ chức, quản lý về mặt nhân sự (đạo diễn, biên tập, quay phim, kỹ thuật, thiết kế…), về mặt kỹ thuật, nội dung,… mang tính chuyên biệt của ngành truyền hình nhằm thực hiện tốt việc phối hợp, liên kết nguồn lực con người, trên cơ sở trang thiết bị chuyên dụng, từ đó, phát huy được tối đa năng lực, trí tuệ của các nhân sự có chuyên môn khác nhau tập hợp thành một tập thể thống nhất ý chí, hành động nhằm mục đích thực hiện tốt nhất việc tạo ra một sản phẩm truyền hình chất lượng, phục vụ người xem một cách tức thời, giúp người xem cảm nhận sự kiện đang diễn ra hoặc các nội dung sự kiện được tổng hợp, chọn lọc và biên tập tiền kỳ, được truyền hình trực tiếp từ trường quay.
Quy trình tổ chức sản xuất chương trình THTT:
- Phân công nhân sự: lên kế hoạch phân công bộ phận nội dung, kỹ thuật và các bộ phận khác có liên quan (nếu có) phụ trách thực hiện chương trình.
- Khảo sát thực tế, thu thập thông tin, dữ liệu: Người làm báo cần đi thực tế, trải nghiệm và tìm hiểu thông tin thực tế, thu thập dữ liệu, hình thành ý tưởng đề tài.
- Viết ý tưởng đề tài: khi xác định được vấn đề cốt lõi của một chương trình sắp thực hiện, khoanh vùng nội dung trọng tâm, đi sâu và chi tiết đề tài nghiên cứu thực hiện. Khi quyết định lựa chọn đề tài, tác giả cần lưu ý có sự cân nhắc đến tính thời sự, sức ảnh hưởng, hiệu quả tác động đến người xem, ý nghĩa chương trình thực hiện, bên cạnh đó là tính khả thi cho khâu sản xuất - tổ chức ghi hình.
- Quay hình: dựa trên ý tưởng đề tài, quay phim định hướng xây dựng kịch bản hình thể hiện rõ chủ đề lựa chọn. Từ thực tế tác nghiệp, câu chuyện hình có thể được các chuyên gia hình ảnh, quay phim sáng tạo, định hình sống động, hấp dẫn hơn.
- Dựng chương trình: kỹ thuật phụ trách khâu dựng hình phối hợp với biên tập/biên kịch hoàn thiện tác phẩm với kỹ thuật dàn dựng chuyên dụng, lồng âm thanh, nhạc, lời bình cho phần nội dung tiền kỳ.
- Hoàn thành kịch bản chương trình THTT: đây là bước sắp xếp nội dung chương trình tổng thể trên giấy với đầy đủ về đường dây chương trình, các bộ phận phối hợp thực hiện. Đây sẽ là cơ sở để Tổng đạo diễn/ Đạo diễn chương trình triển khai thực hiện trong thực tế một cách dễ dàng, mạch lạc hơn.
- Thực hiện chương trình:
Với các chương trình THTT với tính chất không làm lại được, mọi thứ diễn ra một lần và được phát sóng tức thời cho khán giả xem nên công tác chuẩn bị cho bước thực hiện chương trình phải thật hoàn hảo, mọi thứ gần như đã được nắm rõ, biết rõ. Đạo diễn chương trình sẽ tập hợp tất cả nhân sự để cùng kết nối chạy thử một chương trình hoàn chỉnh. Việc kết nối đầy đủ và bao nhiêu lần thực hiện thử tùy thuộc vào yêu cầu của người Đạo diễn. Đây có thể gọi là bước chạy demo cho chương trình, những vấn đề phát sinh sẽ được giải quyết, khắc phục để đảm bảo khi chương trình thực hiện chính thức sẽ hạn chế đến mức thấp nhất mọi rủi ro.
Sau bước chạy demo sẽ là những dặn dò, rút kinh nghiệm cần thiết để cho buổi chính thức được tốt hơn. Nếu bước chạy demo được thực hiện cẩn trọng thì sẽ có nhiều vấn đề để rút kinh nghiệm và những mảnh ráp đó thực sự là những chi tiết còn lại giúp cho chương trình hoàn thiện hơn.
Chương trình chính thức lên sóng.
- Thu thập thông tin phản hồi của người xem và rút kinh nghiệm.
3. Quy trình tổ chức sản xuất chương trình trực tiếp tại Truyền hình Vĩnh Long trong bối cảnh truyền thông số hóa hiện nay
THVL là một kênh truyền hình địa phương thuộc khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, là kênh truyền hình có thực hiện nhiều chương trình trực tiếp. Các bước tổ chức sản xuất chương trình THTT luôn được thực hiện gồm: tổ chức nhân sự, chuẩn bị trang thiết bị, máy móc và tổ chức thực hiện khâu nội dung.
Bước 1: Phân công nhân sự gồm có các đơn vị chuyên môn phối hợp thực hiện (phòng nội dung, phòng kỹ thuật)
Bước 2: Viết kịch bản, nội dung này phòng nội dung thực hiện các bước thu thập thông tin, dữ liệu để triển khai kịch bản chương trình. Đơn vị phụ trách nội dung sẽ chọn lọc hình ảnh, sắp xếp nội dung và các phương án dự trù cho kế hoạch nội dung chương trình thực hiện hoàn chỉnh, tối ưu.
Bước 3: Dựng tiền kỳ, phòng kỹ thuật thực hiện dựng chương trình tiền kỳ ở những mục nội dung chuẩn bị trước, khâu này yêu cầu phải thực hiện phối hơp chặt chẽ với bộ phận nội dung, công tác thực hiện phải nhanh, chính xác và đáp ứng yêu cầu đặt ra của kịch bản.
Bước 4: Duyệt nội dung, các phần thông tin, dữ liệu được sắp xếp đúng yêu cầu của kịch bản sau khi hoàn chỉnh ở khâu tiền kỳ sẽ được Ban Biên tập duyệt lại trước khi lên sóng trực tiếp. Khâu này cũng có thể tương đồng với phần chạy demo chương trình để được Ban Biên tập duyệt toàn bộ các phần nội dung, hình ảnh, kỹ thuật.
Bước 5: Thực hiện chương trình, ekip bước vào phần thể hiện chính thức tất cả các nội dung đã chuẩn bị. Đạo diễn là người quán xuyến các bộ phận chuyên môn theo đúng kịch bản đã trình bày, chọn lọc hình ảnh thực tế chương trình (sử dụng kỹ thuật dựng hình trực tiếp), xử lý một số tình huống phát sinh ngay trong quá trình phát sóng, đảm bảo nội dung, hình ảnh và thời lượng chương trình diễn ra trong phạm vi được cho phép.
Bước 6: Xử lý hậu kỳ và đăng tải chương trình trên các nền tảng số (ngoại trừ nền tảng OTT đã được phát trực tiếp ở chế độ online). Sau khi trực tiếp trên truyền hình, phần nội dung chương trình sẽ được biên tập lại lần nữa trước khi đăng tải chương trình hoàn chỉnh trên nền tảng số với khung thời lượng phù hợp.
Bước 7: Thu thập thông tin phản hồi từ người xem.
Giai đoạn sau sáp nhập với Đài Truyền hình Trà Vinh và Đài Truyền hình Bến Tre từ ngày 01/7/2025, THVL hiện tại vẫn duy trì ekip sản xuất chương trình trực tiếp như trước sáp nhập, một số nhân sự có cắt giảm nhưng các vị trí nhân sự cơ bản vẫn tương đồng so với giai đoạn trước đó. Một ekip sản xuất trực tiếp chương trình tin tức thường khoảng 9 người: đạo diễn, kỹ thuật, quay phim, biên tập, dẫn chương trình. Số lượng quay phim so với trước đây giảm 1 nhân sự, kỹ thuật 1 nhân sự. Do vậy, công tác tổ chức buộc điều phối camera robot thực hiện thêm góc máy thay thế. Thiết bị kỹ thuật được cài đặt phần mềm hỗ trợ dưới sự điều phối của đạo diễn đảm bảo các đầu mối đủ tín hiệu, đạt yêu cầu về hình ảnh, âm thanh để hoàn thành chương trình. Sản phẩm chương trình trực tiếp vẫn được phân phối cho cả truyền hình lẫn nền tảng số. Sự tập trung trong cách thức sản xuất giúp đơn vị có sự nối kết nội bộ chặt chẽ, đảm bảo tính mới của mỗi sản phẩm, tối ưu hóa quy trình vận hành chung của một đơn vị truyền thông. Chi phí sản xuất chương trình được tiết kiệm tối đa do chỉ có một đội ngũ sản xuất chương trình. Chất lượng nội dung, thương hiệu chương trình định hình rõ nét trên các nền tảng (Youtube, Facebook, THVL) giúp THVL dễ được nhận diện, phân luồng người xem trong lựa chọn kênh theo dõi của khán giả. Bên cạnh đó, thương hiệu THVL đã được khẳng định nhiều năm qua cũng được phát huy tối ưu khi luôn giữ chân được nhóm công chúng trung thành.
Tuy nhiên, mô hình sản xuất này cũng có nhiều bất cập, chưa bắt kịp xu thế do những khác biệt ngày càng lớn giữa truyền hình truyền thống và truyền hình trên nền tảng số. Nội dung chương trình THTT tại đơn vị vẫn thực hiện theo cách làm truyền hình truyền thống, chương trình đăng tải trên nền tảng số là chương trình sau trực tiếp, gia công lại từ sản phẩm truyền hình trước đó, chưa có cách thức sản xuất nội dung song song đáp ứng tiêu chí truyền thông đa phương tiện, …Nguyên nhân xuất phát là do đội ngũ nhân sự chưa được trang bị kỹ năng đa nền tảng đầy đủ nên vẫn còn chưa tối ưu hóa được sản phẩm cho nội dung số. Mỗi biến động, quy trình sản xuất mất nhiều thời gian để ra quyết định đồng bộ cho toàn hệ thống nhân sự.
Đặc biệt, đơn vị vẫn chưa có quy trình tổ chức sản xuất chương trình THTT trong bối cảnh số hóa mà vẫn còn áp dụng một quy trình tổ chức sản xuất của truyền hình truyền thống. Trong môi trường số hóa, quy trình tổ chức sản xuất chương trình THTT ngoài các bước thực hiện của chương trình THTT truyền thống thì công tác định hướng nội dung nhận được sự quan tâm của khán giả trên môi trường số để cấu trúc nội dung mang tính thực tế, thu hút là điều cần chú trọng trước tiên. Trong quá trình thực hiện, việc thu thập, phản hồi ý kiến khán giả được thực hiện song song với chương trình diễn ra trên nền tảng số, tính tương tác được nâng cao, một số ý kiến người xem có thể chọn lọc đưa vào chương trình (nếu cần thiết) hoặc có những phản hồi trực tiếp cho người theo dõi, tăng hiệu ứng cùng lúc cho khán giả xem chương trình giúp phát huy tối ưu hiệu quả của dạng chương trình THTT. Khâu kỹ thuật truyền dẫn cần có thêm việc truyền dẫn trên các nền tảng số. Như vậy ekip thực hiện chương trình THTT cho nền tảng số ngoài ekip thực hiện cho dạng truyền hình truyền thống thì cần có thêm nhân sự phụ trách việc phân phối nội dung và trực tiếp phản hồi cho khán giả trên nền tảng số, đảm bảo chương trình phát sóng đồng bộ giữa các nền tảng, tương tác tức thời đáp ứng nhu cầu của nhóm người xem này, phát huy tối đa ưu thế của dạng chương trình THTT. Ngoài ra, có thể ứng dụng công nghệ để kết nối được với nhiều khán giả xem chương trình một cách chủ động. Tiêu chí “ở đâu có khán giả ở đó có truyền hình” sẽ được thực hiện nếu thay đổi quy trình sản xuất chương trình THTT.
4. Giải pháp nâng cao chương trình truyền hình trực tiếp trong bối cảnh số hóa tại kênh truyền hình địa phương
Một số giải pháp xin được đề xuất cho chương trình THTT tốt hơn trong bối cảnh số hóa tại các kênh TH địa phương thời gian tới.
Một là, thiết kế quy trình tổ chức sản xuất mới cho chương trình truyền hình trực tiếp nhằm tối ưu hóa sản phẩm trên nền tảng số. Quy trình sản xuất chương THTT trong bối cảnh số hóa cần phải có thêm công đoạn nghiên cứu ban đầu về công chúng (trên các phương tiện truyền thông). Nghiên cứu ban đầu giúp người làm truyền hình hiểu rõ vấn đề mà khán giả quan tâm nhất, từ đó, thiết kế kịch bản nội dung sẽ hướng được nhiều hơn đến nhu cầu của người xem, tăng hiệu quả cho chương trình. Bước nghiên cứu ban đầu sẽ được kết nối trực tiếp với khâu nghiên cứu phản hồi tạo thành một chu trình truyền thông khép kín trong môi trường số, tối ưu được cách thức thực hiện, lên kế hoạch nội dung, đối tượng hướng đến.
Hai là, trang bị kỹ năng số hóa đồng bộ cho đội ngũ sản xuất, có thể lập kế hoạch cho việc chuyên môn hóa đội ngũ theo hướng sản xuất nội dung số. Nhà báo trong kỷ nguyên số cần nắm vững nguyên tắc sản xuất nội dung đa phương tiện (nắm bắt thông tin, có kế hoạch sáng tạo cho loại hình nền tảng, phiên bản nào, tính mới của nội dung lựa chọn, bản quyền nội dung trong môi trường cộng đồng số, khả năng tự kiểm duyệt,…). Đồng thời tính kết nối nhưng chuyên biệt về cách thức thực hiện ở các bộ phận chuyên môn cần có sự chặt chẽ rõ ràng thì cả bộ máy sản xuất mới có thể vận hành hiệu quả. Khi nhân sự được trang bị đầy đủ kỹ năng, việc chương trình THTT được phát sóng thông nền tảng sẽ được thực hiện dễ dàng và đồng bộ.
Ba là, trang bị nền tảng công nghệ thu hẹp độ trễ tín hiệu, tăng độ phủ sóng trong thời đại mạng 5G, tích hợp công nghệ trí tuệ nhân tạo vào các khâu sản xuất tạo sự đột phá mới cho khâu nội dung, kỹ thuật theo hướng nhanh, tiếp cận nhu cầu người dùng, cá nhân hóa trải nghiệm nội dung đăng tải. Chủ động tạo tương tác cho khán giả, cá nhân hóa theo nhu cầu người dùng và có tư duy mở để tiếp nhận phản hồi trực tiếp, tăng tính tương tác - đặc điểm tối ưu của THTT và nền tảng số.
Bốn là, có chiến lược phát triển nội dung số theo lộ trình cụ thể để vừa đáp ứng được chủ trương số hóa của Chính phủ, vừa có mục tiêu rõ ràng cho đơn vị đảm bảo công tác sản xuất chương trình trực tiếp hiệu quả, bắt kịp xu thế truyền hình hiện nay. Phân khúc độ tuổi khán giả, chọn cách thực hiện, đảm bảo trên các nền tảng truyền tải khác nhau, người dùng đều được thỏa mãn nhu cầu nghe nhìn một sự kiện trực tiếp. Cấu trúc hệ thống nội dung dạng chương trình trực tiếp vừa phù hợp với truyền hình truyền thống lẫn dạng streaming, online.
5. Kết luận
Tác phẩm truyền hình trực tiếp truyền thống chịu áp lực lớn khi đa nền tảng hóa quy trình sản xuất phát sóng, bởi những hạn chế về nguồn nhân lực thực hiện. Trong bối cảnh số hóa truyền hình, một chương trình THTT cần được kết nối cùng lúc trên nhiều nền tảng khác nhau, đảm bảo thông tin phát sóng đồng bộ, mức lan tỏa rộng phát huy được tối đa ưu thế của dạng chương trình này trên đa nền tảng. Quy trình sản xuất cần thực hiện bài bản từ khâu đầu tiên cho đến khâu cuối cùng, đảm bảo thông tin thông suốt, nhanh, chính xác và đáp ứng được tốt nhất nhu cầu, thói quen của khán giả. Và yếu tố trọng tâm của việc thực hiện hiệu quả chương trình THTT trong bối cảnh số hóa vẫn là vấn đề con người. Nhân sự thực hiện cần được trang bị đầy đủ về kỹ năng, bản lĩnh chính trị và có tư duy mở trong cách thức làm truyền hình hiện đại, như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của quy trình tổ chức sản xuất chương trình THTT trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ như hiện nay tại các kênh truyền hình địa phương./.
______________________________
(1), (4) Trần Bảo Khánh (2003), Sản xuất chương trình truyền hình, Nxb. Văn hóa thông tin Hà Nội. tr.35, 35.
(5) Dayan, D., & Katz, E. (1992), Media events: The live broadcasting of history. Harvard University Press.
(6) Marriott, S. (2007), Live television: Time, space and the broadcast event. SAGE Publications.
(2) Doyle, G. (2015), Multi-platform media and the miracle of the loaves and fishes. Journal of Media Business Studies, 12(1), tr. 49-65. https://doi.org/10.1080/16522354.2015.1027113.
(3) Đinh Mạnh Cường (2021), Tổ chức sản xuất chương trình bản tin thời sự trực tiếp trên Kênh Truyền hình Quốc hội Việt Nam, Tạp chí điện tử Lý luận chính trị và Truyền thông (Số tháng 4/2021). https://lyluanchinhtriva truyenthong.vn/to-chuc-san-xuat-chuong-trinh-ban-tin-thoi-su-truc-tiep-tren-kenh-truyen-hinh-quoc-hoi-viet-nam-p24963.html.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Quản trị truyền thông ứng phó với thiên tai của Đài Truyền hình Việt Nam trong bối cảnh truyền thông số hiện nay
- Công tác thông tin về thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay: Vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị
- Quản trị truyền thông thương hiệu ngân hàng thương mại cổ phần vốn nhà nước chi phối ở Việt Nam
- Văn hóa tham gia truyền thông số hậu Covid-19 ở Việt Nam (từ tham chiếu khung lý thuyết của Jenkins)
- Hoạt động marketing bền vững của các thương hiệu Unilever và Coca Cola tại Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
Phim Tài liệu: Video Khoa xây dựng Đảng 50 năm Xây dựng và Phát triển
-
2
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cơ quan chuyên trách, tham mưu giúp việc Đảng ủy đặc khu Bạch Long Vĩ, thành phố Hải Phòng hiện nay
-
3
Quản lý thông tin thị trường bất động sản trên tạp chí điện tử Việt Nam hiện nay
-
4
Tác động của truyền thông thương hiệu đến giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại các trường đại học kỹ thuật ở Hà Nội
-
5
Giải pháp tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng facebook của sinh viên hệ 9+
-
6
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Hải Phòng trong phát triển dịch vụ logistics hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở ở Đảng bộ Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Chất lượng sinh hoạt chi bộ phản ánh năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và tinh thần trách nhiệm của đảng viên. Sinh hoạt chi bộ nghiêm túc, dân chủ, thiết thực góp phần nâng cao ý thức chính trị, củng cố đoàn kết nội bộ và thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Bài viết làm rõ thực trạng sinh hoạt chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở ở Đảng bộ Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, chỉ ra một số hạn chế, bất cập; từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở ở Đảng bộ UBND thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới.
Quản trị truyền thông ứng phó với thiên tai của Đài Truyền hình Việt Nam trong bối cảnh truyền thông số hiện nay
Quản trị truyền thông ứng phó với thiên tai của Đài Truyền hình Việt Nam trong bối cảnh truyền thông số hiện nay
Bài viết tập trung phân tích hoạt động và hiệu quả quản trị truyền thông ứng phó với thiên tai của Đài Truyền hình Việt Nam (ĐTHVN) trong bối cảnh truyền thông số, dựa trên phân tích nội dung tác phẩm và khảo sát ý kiến công chúng theo dõi các kênh truyền thông của ĐTHVN. Nghiên cứu chỉ ra rằng: hệ thống truyền thông ứng phó với thiên tai của ĐTHVN đã đảm bảo tính chính xác và kịp thời, song vẫn còn thiếu cơ chế phản hồi hai chiều và quản trị dữ liệu liên thông. Từ đó, bài viết đề xuất mô hình “quản trị truyền thông ứng phó thiên tai bốn tầng”, hướng đến mục tiêu xây dựng năng lực quản trị thông tin quốc gia trong điều kiện số hóa toàn diện.
Công tác thông tin về thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay: Vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị
Công tác thông tin về thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay: Vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị
Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó nhấn mạnh yêu cầu “đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin tuyên truyền” cũng như “nghiêm cấm các hành vi đưa thông tin sai lệch, không chính xác, ảnh hưởng đến doanh nghiệp, doanh nhân”. Đây là vừa là định hướng chiến lược, vừa là yêu cầu đối với báo chí trong giai đoạn mới, trong đó, có hoạt động thông tin thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp (TTCK, TPDN). Hoạt động thông tin báo chí về TTCK, TPDN có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, nghiên cứu thông tin về TTCK và TPDN trên báo chí nói chung, báo mạng điện tử (BMĐT) nói riêng là cần thiết nhằm góp phần nâng cao chất lượng truyền thông, định hướng dư luận xã hội, bảo vệ doanh nghiệp, nhà đầu tư và thúc đẩy thị trường phát triển theo hướng lành mạnh, bền vững.
Quản trị truyền thông thương hiệu ngân hàng thương mại cổ phần vốn nhà nước chi phối ở Việt Nam
Quản trị truyền thông thương hiệu ngân hàng thương mại cổ phần vốn nhà nước chi phối ở Việt Nam
Trong hệ thống tài chính - ngân hàng Việt Nam, các ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) có vốn nhà nước chi phối vừa là chủ thể kinh doanh, vừa thực thi mục tiêu ổn định vĩ mô, nên thương hiệu mang bản chất thể chế - thương mại, gắn với niềm tin về sự an toàn, minh bạch. Trong bối cảnh chuyển đổi số và cạnh tranh gia tăng, quản trị truyền thông (QTTT) thương hiệu của các ngân hàng này đối mặt “nghịch lý thể chế - tốc độ”: cơ chế quản trị nhiều tầng kiểm soát bảo đảm an toàn nhưng làm chậm phản ứng trước dòng chảy thông tin nhanh. Dựa trên khung lý thuyết về thương hiệu thể chế cùng dữ liệu khảo sát khách hàng và phỏng vấn cán bộ truyền thông do tác giả thực hiện, bài báo nhận diện ba biểu hiện của nghịch lý này và đề xuất tiếp cận QTTT thương hiệu như năng lực điều hành niềm tin thể chế, với ba trụ cột: quyền lực truyền thông; xây dựng hệ thông dữ liệu và cảnh báo sớm; thiết lập chế độ đối thoại với các nhóm công chúng.
Văn hóa tham gia truyền thông số hậu Covid-19 ở Việt Nam (từ tham chiếu khung lý thuyết của Jenkins)
Văn hóa tham gia truyền thông số hậu Covid-19 ở Việt Nam (từ tham chiếu khung lý thuyết của Jenkins)
Hai thập niên đầu thế kỷ XXI chứng kiến sự chuyển dịch mạnh mẽ từ mô hình truyền thông phát tán một chiều sang hệ sinh thái số tương tác, nơi công chúng không chỉ tiếp nhận mà còn đồng sáng tạo nội dung. Đại dịch Covid-19 (2020-2022) đã thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, gia tăng mức độ tham gia của công dân trên các nền tảng trực tuyến. Dựa trên khung lý thuyết “văn hóa tham gia” của Henry Jenkins, bài viết hệ thống hóa khái niệm và các mức độ tham gia, mô tả bối cảnh truyền thông số hậu đại dịch trên bình diện toàn cầu và tại Việt Nam, đồng thời phân tích các biểu hiện, xu hướng, cũng như thách thức trong thực tiễn Việt Nam.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận