Chăm lo đời sống thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công theo tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thương, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công với cách mạng
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó đến như một trận lụt to. Nó đe dọa tràn ngập cả non sông Tổ quốc. Nó đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh tài sản, chìm đắm cả bố, mẹ, vợ, con, dân ta. Trước cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta dũng cảm xông ra mặt trận. Họ quyết đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững, để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mệnh họ, để giữ gìn tính mệnh của đồng bào. Họ hy sinh gia đình và tài sản họ, để bảo vệ gia đình và tài sản của đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sĩ anh dũng của ta. Trong đó, có người đã bỏ lại một phần thân thể ở trước mặt trận. Có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh, đó là tử sĩ”(1); “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt”(2). Đối với liệt sĩ “Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do”(3).
Kế thừa truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ người trồng cây" của dân tộc, đặc biệt thấu hiểu những hy sinh, cống hiến của các anh hùng liệt sĩ, thương binh đối với đất nước, theo Hồ Chí Minh: “Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”(4). Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, của thế hệ đi sau đối với sự hy sinh lớn lao của thế hệ đi trước.
Trách nhiệm của Đảng, Chính phủ đối với công tác này được Hồ Chí Minh chỉ dẫn cụ thể trong nhiều bài nói, bài viết, đặc biệt trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc đi xa, Người căn dặn: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.
Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”(5).
Đối với các cấp chính quyền ở địa phương, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn cần tùy điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mình mà giúp đỡ, chăm sóc thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ, sao cho đạt hiệu quả thiết thực nhất cả trước mắt và lâu dài.
Đối với mỗi người dân, theo Hồ Chí Minh cần coi đây là nghĩa vụ, trách nhiệm công dân, thế hệ đi sau cần có trách nhiệm với thế hệ đi trước, trách nhiệm với sự đóng góp, hy sinh lớn lao của các thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ. Cần nhất quán quan điểm việc thực hiện chính sách đền ơn, đáp nghĩa đối với thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ là trách nhiệm chứ không phải là một việc “làm phúc”.
Với các thương binh, bệnh binh - những người trực tiếp thụ hưởng chính sách, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn cần tiếp tục truyền thống anh dũng của người quân nhân cách mạng. “Phải hòa mình với nhân dân, tôn trọng nhân dân, tránh phiền nhiễu nhân dân. Tránh tâm lý "công thần", coi thường lao động, coi thường kỷ luật. Chớ bi quan chán nản. Phải luôn luôn cố gắng”(6)… Họ phải cố gắng đem hết khả năng của mình để tăng gia sản xuất, dần dần có thể tự lực cánh sinh, tiến tới tự cấp tự túc, giảm bớt khó khăn cho bản thân, gia đình và xã hội. Phấn đấu để trở thành người công dân kiểu mẫu ở hậu phương cũng như đã từng là người chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận. Người luôn căn dặn những thương binh, bệnh binh cần phát huy tinh thần người lính, thực hiện tốt phương châm “tàn nhưng không phế”.
Không chỉ trực tiếp lãnh đạo đất nước, định hình đường lối thực hiện chính sách đối với thương, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người có công, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có nhiều hoạt động thể hiện sự quan tâm trực tiếp tới công tác đầy giá trị nhân văn và thấm đẫm tình người này. Năm 1946, ngay khi nước nhà vừa mới giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền Tự do, Độc lập và Thống nhất của nước nhà bằng hình thức ra "Thông báo về việc nhận con các liệt sĩ làm con nuôi"(7), trong đó thể hiện rõ tình cảm, sự biết ơn, chia sẻ sâu sắc đối với hy sinh của các liệt sĩ.
Đặc biệt, năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị chọn một ngày trong năm làm "Ngày Thương binh” để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với thương binh, liệt sĩ. Ngày 27.7.1947, một cuộc mít-tinh lớn kỷ niệm ngày Thương binh toàn quốc đã diễn ra tại Đại Từ, Thái Nguyên, mở đầu cho Ngày Thương binh, liệt sĩ hằng năm. Từ đây, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân luôn coi ngày 27.7 là ngày để tưởng nhớ, tôn vinh và tri ân công lao to lớn đối với các anh hùng liệt sĩ, thương binh, bệnh binh - những người có công với cách mạng và gia đình các liệt sĩ. Cũng từ đó, vào dịp tháng 7 hằng năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh, gia đình liệt sĩ, một mặt khẳng định công lao, đóng góp của họ, một mặt động viên họ không ngừng cố gắng, vươn lên. Trong 22 năm (1947 - 1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 14 lần gửi quà, tiền nhân Ngày Thương binh, liệt sĩ vào Quỹ thương binh toàn quốc cho các trại an dưỡng thương binh…
2. Không ngừng hoàn thiện hơn nữa chính sách đối với thương, bệnh binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng
Quán triệt tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh, chính sách ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công không chỉ là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, mà trở thành một hệ thống chính sách lớn của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới, góp phần to lớn vào sự ổn định và phát triển xã hội. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã khẳng định: “Thực hiện tốt chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình cán bộ, chiến sĩ chiến đấu ngoài mặt trận, gia đình có công với cách mạng”(8).
Trong các kỳ đại hội tiếp theo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán với chủ trương đó và bổ sung, hoàn thiện, nhằm huy động mọi nguồn lực xã hội, phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội chăm lo đời sống cho thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng. Văn kiện Đảng chỉ rõ: “Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến...”(9).
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công trên cơ sở huy động mọi nguồn lực xã hội kết hợp với nguồn lực của Nhà nước; bảo đảm người có công có mức sống từ trung bình trở lên”(10). Tinh thần đó cũng tiếp tục được nhấn mạnh trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: “Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công; đẩy mạnh các hoạt động đền ơn đáp nghĩa. Tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người có công; bảo đảm chế độ ưu đãi người và gia đình người có công phù hợp với xu hướng tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội”(11).
Từ chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước đã không ngừng xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng. Các chính sách đó từng bước được luật hóa thành hai pháp lệnh: Pháp lệnh phong tặng và truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” và Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng (nay là Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng). Hai pháp lệnh về người có công, thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ ra đời là cơ sở, căn cứ quan trọng để Nhà nước và nhân dân không ngừng cố gắng nâng cao chất lượng, hiệu quả trong chăm lo cho các gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng, giúp cho họ từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần.
3. Chăm lo hơn nữa đời sống cho các gia đình thương, bệnh binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng
Với chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn, phù hợp truyền thống dân tộc và sự mong mỏi của toàn dân, chế độ, chính sách đối với người có công từng bước được mở rộng về đối tượng thụ hưởng với mức trợ cấp được nâng lên hằng năm. Tính đến năm 2021, cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu người có công, trong đó, số người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hằng tháng gần 1,4 triệu người; trên 500 nghìn thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp tiền tuất hằng tháng. Phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa” ngày càng được xã hội hóa sâu rộng. Nhiều cơ sở sự nghiệp, chăm sóc sức khỏe được xây dựng phục vụ các đối tượng chính sách. Nhiều nghĩa trang liệt sĩ và các công trình tưởng niệm liệt sĩ đã được xây dựng, trong đó có nhiều nghĩa trang trở thành những công trình văn hóa - lịch sử của đất nước, như: Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên Phủ...
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục, giải quyết. Tình trạng sai sót đối tượng trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ vẫn còn diễn ra ở một số địa phương. Công tác đền ơn đáp nghĩa ở một số nơi chưa gắn với việc giáo dục truyền thống, tuyên truyền mục đích, ý nghĩa của phong trào, tôn vinh người tốt, việc tốt. Chế độ trợ cấp ưu đãi nhìn chung còn thấp. Đời sống của gia đình chính sách tuy được cải thiện nhưng vẫn còn thấp, học hành và việc làm của con em chưa được bảo đảm. Những sai sót, nhầm lẫn, tiêu cực trong thực hiện chính sách xảy ra ở một số nơi, gây không ít phiền hà cho người hưởng chính sách, gây dư luận không tốt trong xã hội.
Để thực hiện tốt hơn nữa công tác chăm lo đời sống cho các gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, cần tiếp tục tập trung thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiếp tục tuyên truyền sâu rộng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng. Đây là công việc cần diễn ra thường xuyên, liên tục do các cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương trực tiếp lãnh đạo, tiến hành làm cho mọi cán bộ, đảng viên và tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc về mục đích, ý nghĩa, giá trị to lớn của việc thực hiện công tác chính sách xã hội nói chung, công tác thương binh, liệt sĩ, người có công nói riêng và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”.
Thứ hai, không ngừng nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện chính sách ưu đãi đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công, nâng mức trợ cấp phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước nhằm bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn cư trú.
Thứ ba, xử lý dứt điểm tồn đọng về xác nhận, công nhận người có công, tránh thiệt thòi cho những thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, tránh những bức xúc không đáng có trong xã hội. Tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác tu bổ, tôn tạo nghĩa trang liệt sĩ, công trình ghi công liệt sĩ; đẩy mạnh tìm kiếm, xác định danh tính liệt sĩ, quy tập hài cốt liệt sĩ, kịp thời thông báo và tạo điều kiện thuận lợi để thân nhân liệt sĩ đến thăm viếng.
Thứ tư, cần tiếp tục đẩy mạnh sâu rộng phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”. Động viên toàn dân, phối hợp nhiều nguồn lực với phương châm “Nhà nước, nhân dân và những người được hưởng chính sách ưu đãi cùng phấn đấu”, cùng các biện pháp phong phú, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả chăm sóc thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng./.
__________________________________________________
(1) (2) (4) (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., 2011, T.5, tr. 579, 204, 579, 616.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T.12, tr.401.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T.7, tr.456.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T.4, tr.486.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H., 2006, T.47, tr.558.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H., 2011, tr.229-230.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H., 2016, tr.136.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H., 2021, T.II, tr.43
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Tuyên giáo điện tử ngày 18.7.2022
Bài liên quan
- Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
- Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
Kinh nghiệm giảng dạy từ đồng nghĩa trong giờ đọc – hiểu tiếng Việt cho sinh viên nước ngoài tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
-
2
Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
-
3
Nâng cao chất lượng thực hành nghề nghiệp cho sinh viên ngành công tác xã hội tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
-
4
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
-
5
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
-
6
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, “kim chỉ nam” dẫn dắt dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong bối cảnh mới, công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là cuộc chiến của lý luận, để bảo vệ lý tưởng và củng cố niềm tin vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trước sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng gia tăng cả về quy mô lẫn mức độ tinh vi, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trở nên cấp bách hơn; trong đó, báo chí đóng vai trò hết sức quan trọng.
Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Trong suốt hơn hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, cái tên Vladimir Putin đã trở thành biểu tượng gắn liền với tiến trình phát triển và chuyển mình của Liên bang Nga. Từ một quốc gia đối mặt với khủng hoảng kinh tế - chính trị nghiêm trọng sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Putin đã từng bước khôi phục ổn định, nâng cao vị thế quốc tế và củng cố bản sắc quốc gia. Dù vẫn còn không ít tranh cãi, không thể phủ nhận rằng Vladimir Putin đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nước Nga hiện đại như một nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn lao và lâu dài. Bài viết được thực hiện với mục đích phân tích các giai đoạn cầm quyền của ông, từ đó làm rõ những đóng góp, lựa chọn chiến lược và quyết sách của Ông đối với vận mệnh quốc gia. Qua đó, góp phần lý giải vì sao Vladimir Putin được xem là “người sẽ cứu nước Nga” trong thời kỳ chuyển giao và định hình bản sắc, quyền lực quốc gia hậu Xô Viết.
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Công cuộc tinh gọn bộ máy nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước hiện đại, hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả, phục vụ nhân dân. Trong tiến trình đó, công tác cán bộ đóng vai trò trung tâm, bởi cán bộ chính là người tổ chức và thực thi cải cách. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự tương xứng với yêu cầu đổi mới bộ máy nhà nước. Bài viết tiếp cận vấn đề từ nền tảng lý luận Mác, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng để phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn trong đổi mới công tác cán bộ, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống chính trị trong bối cảnh mới.
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh chuyển đổi số y tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn quốc, một số bệnh viện tuyến trung ương đã bước đầu ứng dụng truyền thông số hiệu quả trong tư vấn tâm lý – xã hội, kết nối cộng đồng và vận động nguồn lực, tuy nhiên, phần lớn bệnh viện tuyến tỉnh, huyện chưa có điều kiện triển khai đầy đủ. Bài viết đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tích hợp truyền thông số vào hoạt động công tác xã hội (CTXH) tại bệnh viện, góp phần định hướng phát triển CTXH bệnh viện theo hướng chuyên nghiệp, công bằng và thích ứng với bối cảnh số hóa y tế đến năm 2030.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Theo thống kê trong giai đoạn từ 2013 – 2023 cho thấy độ tuổi kết hôn trung bình của người dân đang có xu hướng tăng(1). Vì vậy, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi này tại Việt Nam. Bài nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi trong độ tuổi kết hôn của người dân Việt Nam, đồng thời phân tích rõ ảnh hưởng của những nhân tố như trình độ học vấn, nền tảng gia đình, địa lý, chi phí sinh hoạt, thu nhập, nghề nghiệp và truyền thông tới việc trì hoãn kết hôn, thông qua dữ liệu từ cuộc khảo sát gồm 736 người trong độ tuổi từ 18 – 35, trải rộng khắp các vùng miền của Việt Nam. Qua đó, nhóm tác giả nêu lên một số đánh giá về tác động của hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ tới sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sau cùng, nhóm tác giả đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề trì hoãn kết hôn của người trẻ Việt Nam hiện nay.
Bình luận