Chính sách Kinh tế mới của V.I.Lênin và ý nghĩa với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1. Nội dung cơ bản của Chính sách kinh tế mới (NEP)
Sau khi nội chiến kết thúc, từ mùa xuân 1921, nước Nga chính thức bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH và thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP) với những nội dung chính như sau:
(1) Thay chế độ trưng thu lương thực thừa bằng chế độ thu thuế lương thực, ngoài phần nộp thuế nông dân được tự do mua - bán trên thị trường. Việc thay thế chế độ trưng thu bằng thuế lương thực và ra sắc lệnh tự do buôn bán các nông sản thừa sau khi đã nộp thuế, tức là cho CNTB phát triển.
(2) Sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước.
V.I.Lênin cho rằng: “Ở một nước trong đó những người sản xuất nhỏ - tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số dân cư, chỉ có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một loạt những biện pháp quá độ đặc biệt, hoàn toàn không cần thiết ở những nước tư bản phát triển”(1). Và V.I.Lênin đặc biệt chú ý đến việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước. Tại phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương các Xôviết toàn Nga ngày 29-4-1018, V.I.Lênin khẳng định: “Dưới chính quyền Xôviết thì chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ có thể là 3/4 chủ nghĩa xã hội, bởi vì người nào tổ chức ra những xí nghiệp tư bản nhà nước thì ta có thể biến người đó thành trợ thủ của mình(2), và “bởi vì chủ nghĩa tư bản nhà nước là cái gì có tính chất tập trung, được tính toán, được kiểm soát và được xã hội hóa”(3). V.I.Lênin coi: chủ nghĩa tư bản nhà nước là một trong những bước quá độ lên CNCS. “Để chuẩn bị - bằng một công tác lâu dài hàng bao nhiêu năm - việc chuyển sang chủ nghĩa cộng sản, thì cần thiết phải có một loạt những bước quá độ như chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội”(4).
“Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy, trong một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy, chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”(5).
(3) Thương nghiệp là mắt xích chủ yếu, là đòn xeo của chính sách kinh tế mới
Trong một nước tiểu nông, tính tự phát tiểu tư sản chiếm ưu thế, cho nên “hễ có trao đổi, thì sự phát triển của nền kinh tế nhỏ là một sự phát triển tiểu tư sản, một sự phát triển tư bản chủ nghĩa”(6). Vậy trước tình hình đó, có thể thực hiện chính sách nào?
Hoặc là tìm cách ngăn cấm trao đổi tư nhân, tức là CNTB - một sự phát triển không thể tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ. “Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế, chính sách ấy là không thể nào thực hiện được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản”(7).
Trong thực hiện Chính sách kinh tế mới, V.I.Lênin coi trọng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, coi trọng sản xuất và lưu thông hàng hóa, xem trao đổi hàng hóa là “đòn xeo chủ yếu”(8) để phát triển kinh tế. V.I.Lênin chỉ rõ: từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH, tất yếu phải phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa. Việc ngăn cấm hay chặn đứng sự phát triển của quan hệ hàng hóa - tiền tệ là điều không tưởng, giai cấp nào cố thực hiện việc xóa bỏ quan hệ hàng hóa - tiền tệ hay cưỡng lại các quy luật của kinh tế hàng hóa trong thời kỳ quá độ lên CNXH là đi đến chỗ tự sát. Bởi lẽ chính sách đó không thể thực hiện được trong điều kiện có sự tồn tại khách quan của hàng triệu người sản xuất hàng hóa nhỏ.
Theo V.I.Lênin: thông qua thương nghiệp và trao đổi hàng hóa với nông dân để khôi phục nông nghiệp và trên cơ sở đó khôi phục công nghiệp lớn. Điều này có nghĩa là “chấp nhận nông dân là thương nhân”, coi trọng nguyên tắc thương nghiệp tự do. Và theo V.I.Lênin, đó là chính sách duy nhất đúng để ngăn ngừa phục hồi CNTB và bảo đảm con đường tới CNXH. Người cho rằng: trong điều kiện sản xuất nhỏ phổ biến thì tự do thương mại, tự do buôn bán là tất yếu.
(4) Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
Cách mạng vô sản thành công ở một nước chưa có đại công nghiệp phát triển, chưa có CNTB phát triển, như nước Nga, thì phải quá độ gián tiếp lên CNXH, nghĩa là thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều bước, nhiều nấc thang quá độ nhỏ và nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế quá độ với đặc trưng cơ bản là nền kinh tế nhiều thành phần. V.I.Lênin chỉ ra những thành phần kinh tế ở nước Nga lúc bấy giờ là: 1) Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng (nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên); 2) Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mì); 3) Chủ nghĩa tư bản tư nhân; 4) Chủ nghĩa tư bản nhà nước; 5) Chủ nghĩa xã hội.
Sự phân định các thành phần kinh tế như vậy phản ánh đúng tình hình kinh tế ở nước Nga khi ấy và được sắp xếp từ thấp lên cao theo quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển lực lượng sản xuất.
Trong nền kinh tế ở thời kỳ quá độ lên CNXH tồn tại và phát triển nhiều hình thức sở hữu, do đó, tất yếu tồn tại và phát triển nhiều thành phần kinh tế(9).
V.I.Lênin chỉ rõ: ứng với điều kiện nước Nga, các thành phần kinh tế đều xen kẽ với nhau trong nền kinh tế, trong đó thành phần kinh tế cơ bản là kinh tế hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế XHCN.
Nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo các quy luật của kinh tế hàng hóa. V.I.Lênin chủ trương: phát triển sản xuất và lưu thông, trao đổi hàng hóa trên mọi phương diện và phải “làm cho bằng được, không sợ chủ nghĩa tư bản”(10). Phải nâng dần trình độ tổ chức quản lý nền kinh tế để tạo ra năng suất lao động xã hội cao hơn. “Chúng ta không nên sợ thú nhận rằng ở đây chúng ta có thể và phải học tập nhiều nữa ở bọn tư bản”(11), “có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản tư nhân để xúc tiến chủ nghĩa xã hội”(12).
Cần nhấn mạnh thêm rằng, các thành phần kinh tế mà V.I.Lênin đã chỉ ra không trùng khớp với tất cả các quốc gia thực hiện quá độ lên CNXH, mà tùy điều kiện, tùy hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của từng quốc gia khác nhau mà có những thành phần kinh tế khác nhau. Vấn đề cốt lõi có tính quy luật là ở chỗ, nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ lên CNXH tất yếu là nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo các quy luật kinh tế khách quan của nền kinh tế hàng hóa.
(5) Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
Theo V.I.Lênin, vấn đề sống còn của CNXH là vấn đề chuyên chính vô sản được thiết lập, tăng cường và nền tảng vật chất - kỹ thuật, nền đại công nghiệp, điện khí hóa được xây dựng và phát triển. Nhất là ở những nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH thì sau khi giành được chính quyền về tay công - nông, cùng với việc củng cố, tăng cường chuyên chính vô sản, điều quan trọng hơn, cần kíp hơn là phải phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH để có nền đại công nghiệp là nền tảng kinh tế của CNXH, là cơ sở duy nhất tạo ra năng suất lao động xã hội cao, nhờ đó có thể chiến thắng được CNTB. Bởi “xét đến cùng thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho sự thắng lợi của xã hội mới. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra năng suất lao động chưa từng thấy dưới chế độ nông nô. Chủ nghĩa tư bản có thể bị đánh bại hẳn vì chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra năng suất lao động mới cao hơn nhiều”(13).
Vì vậy, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, mà trọng tâm của trọng tâm là xây dựng, phát triển nền đại công nghiệp - thước đo sự phát triển của CNXH. Muốn có nền đại công nghiệp thì phải tiến hành công nghiệp hóa XHCN. V.I.Lênin cho rằng: công nghiệp hóa XHCN để xây dựng nền đại công nghiệp với tư cách là nền tảng kinh tế, là cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, là một nội dung quan trọng hàng đầu trong kế hoạch xây dựng CNXH ở nước Nga Xôviết. Công nghiệp hóa XHCN để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH là tất yếu và trở thành quy luật đối với mọi quốc gia thực hiện quá độ lên CNXH, đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế tương đối lạc hậu, quá độ lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển TBCN.
Khi đề cập đến quá trình công nghiệp hóa (CNH) ở nước Nga Xôviết, V.I.Lênin đã chỉ rõ nội dung và phương thức tiến hành CNH.
Về nội dung CNH, V.I.Lênin xác định cần tập trung ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, gồm các ngành công nghiệp chủ yếu như: cơ khí, điện lực, khai khoáng… Phải xây dựng cơ cấu ngành sản xuất hợp thành một hệ thống công nghiệp đóng vai trò nền tảng và là cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Quá trình CNH, theo V.I.Lênin cũng là quá trình giải quyết tốt mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, thông qua chế độ trao đổi có tính chất XHCN, là quá trình biến đổi cơ cấu kinh tế của nước Nga Xôviết.
Về phương thức (hay cách thức) tiến hành CNH xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH, theo V.I.Lênin, bao gồm:
1) Phải kế thừa, học tập các nhà tổ chức lớn nhất của CNTB để tạo ra những tiền đề cơ bản về kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị cho sự quá độ lên CNXH.
V.I.Lênin đã nêu ra công thức nổi tiếng: “Chính quyền Xôviết + chế độ quản lý đường sắt của Phổ + kỹ thuật Mỹ và tổ chức Xanhđica + nền giáo dục quốc dân Mỹ + ete, ete = ∑ = CNXH”(14).
2) Kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, trước hết là xây dựng kế hoạch điện khí hóa nước cộng hòa Liên bang XHCN Xôviết Nga (GOENRO).
3) Đào tạo nguồn nhân lực, trước hết công nhân kỹ thuật, các chuyên gia kỹ thuật, kinh tế... đồng thời sử dụng các chuyên gia, các nhà kỹ thuật của CNTB để lại… V.I.Lênin đã viết: “Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, cần phải có những người cộng sản, những người “biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những tri thức mà nhân loại đã tạo ra”(15) và “không có cái vốn hiểu biết, kỹ thuật và văn hóa thì không thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội, thế mà cái vốn đó lại nằm trong tay các chuyên gia tư sản”(16).
4) Phát triển thương mại, đẩy mạnh trao đổi hàng hóa trong mối quan hệ giữa công nghiệp thành thị và kinh tế nông thôn. V.I.Lênin viết: “... việc giải quyết một cách thực tế các vấn đề đó là phương pháp tốt nhất để cuối cùng chúng ta đạt được mục tiêu; khôi phục lại nông nghiệp và trên cơ sở đó tăng cường và phát triển đại công nghiệp”(17).
(6) Hợp tác hóa
Theo V.I.Lênin, khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, đất đai được xã hội hóa, công xưởng nhà máy được quốc hữu hóa, thì việc mở rộng thành lập các tổ chức hợp tác xã (HTX) trong phạm vi toàn xã hội đã làm cho tất cả công dân trở thành những thành viên của HTX toàn quốc. Như vậy, khi chính quyền đã thuộc về giai cấp công nhân, quan hệ sản xuất mới đã được thiết lập ở những vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế, thì hợp tác hóa (HTH) không còn là ảo tưởng, ước mơ, mà trở thành sự thật.
V.I.Lênin cho rằng cần phải thay đổi quan niệm về chế độ HTX, cơ cấu hoạt động của HTX, bộ máy HTX cũng phải thay đổi và đặt dưới sự kiểm soát của Chính quyền Xôviết. Thực hiện Chính sách kinh tế mới, V.I.Lênin cũng thừa nhận sự tái sinh và tồn tại những HTX mang tính chất tư sản và do tác động của Chính quyền Xôviết thì nó được hướng vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước HTX. V.I.Lênin cho rằng, HTX của những người sản xuất nhỏ trong điều kiện tự do buôn bán nhất định nảy sinh những quan hệ tư bản, tiểu tư sản và góp phần phát triển quan hệ ấy. Nhưng dưới Chính quyền Xôviết, sự phát triển ấy được hướng vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước HTX. “Các hợp tác xã cũng là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước, nhưng ít đơn giản hơn, có hình thù ít rõ rệt hơn, phức tạp hơn và vì thế, trong thực tế, nó đặt chính quyền xô-viết trước những khó khăn lớn hơn”(18).
Những tiền đề của HTH theo xu hướng XHCN, theo V.I.Lênin đó là:
Thứ nhất, giai cấp vô sản phải giành chính quyền.
Thứ hai, trong nền kinh tế quốc dân đã xuất hiện thành phần kinh tế chủ đạo XHCN, những tư liệu sản xuất cơ bản thuộc về sở hữu nhà nước (do Đảng cộng sản lãnh đạo).
Thứ ba, tiền đề văn hóa. Hợp tác văn minh chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở một trình độ văn hóa, văn minh, không dựa trên tiền đề văn hóa đạt được thì phong trào HTH khó tránh khỏi tính chất phi nhân đạo.
Những nguyên tắc của hợp tác hóa:
Một là, tự nguyện. Nguyên tắc này được C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đặc biệt lưu ý. Hai là, Nhà nước chuyên chính vô sản phải ủng hộ và giúp đỡ HTX của người lao động. Ba là, hợp tác hóa phải tiến hành từng bước, để một mặt làm cho nông dân thích nghi với phương thức làm ăn mới, mặt khác, cơ bản hơn là để cho phù hợp với tính đặc thù phát triển của kinh tế nông dân và hình thái xã hội nông thôn. Bốn là, hình thức và biện pháp HTH phải thiết thực, cụ thể, hết sức tránh những biện pháp và hình thức cao xa, mơ hồ. Năm là, HTH là quá trình thực hiện liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo, trong đó liên minh kinh tế là chủ yếu.
Những hình thức hợp tác xã.
V.I.Lênin đã nêu ra một số hình thức hợp tác như sau:
1) Hình thức công xã, những công xã tiêu dùng và sản xuất trong thời kỳ cộng sản thời chiến.
2) Hình thức hiệp hội, những người lao động, người sản xuất tự liên kết với nhau để thực hiện sản xuất, hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và đời sống.
3) Hình thức khoán thuê, những người lao động tự tổ chức nhận khoán thuê những tư liệu sản xuất thuộc về sở hữu của nhà nước và nhân dân trên cơ sở hợp đồng cam kết.
4) Hình hức liên hiệp giữa các trung nông, nông dân giàu có trong hiệp hội sản xuất kinh doanh.
5) Hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước, HTX tư nhân khi đã có sự kiểm soát chặt chữ của nhà nước và liên kết với thành phần kinh tế chủ đạo.
Các hình thức trên có thể đan kết với nhau trong một tổ chức kinh tế.
Trong 5 hình thức trên, hình thức hiệp hội và chủ nghĩa tư bản nhà nước là 2 hình thức được áp dụng phổ biến trong quá trình HTH. Hình thức hiệp hội vừa phát huy được tính tự nguyện tự giác của cá nhân, vừa phát huy được sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa người lao động, người sản xuất. Còn hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước kết hợp được lợi ích tư nhân và thực hiện được sự kiểm soát của tư bản nhà nước, từng bước phát triển thành những xí nghiệp tự quản.
Bước đi của quá trình hợp tác hóa.
Theo V.I.Lênin, bước đi của HTH là dần dần, từ tấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
2. Giá trị khoa học và cách mạng trong lý luận của V.I.Lênin về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(1) Do vận dụng không đúng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào nước Nga từ sau Cách mạng Tháng Mười đến năm 1920 đã kìm hãm lực lượng sản xuất, dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị của nước Nga Xôviết. Việc thẳng thắn thừa nhận thất bại và sai lầm của thời kỳ trên và tìm ra những biện pháp sửa chữa các sai lầm đó trong Chính sách kinh tế mới đã đưa nước Nga nhanh chóng thoát khỏi khủng hoảng, tiến tới phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân, củng cố chính quyền Xôviết.
(2) Tùy theo điểm xuất phát của thời kỳ quá độ lên CNXH là đại sản xuất hay sản xuất nhỏ chiếm ưu thế mà lựa chọn phương thức tiến hành cách mạng XHCN cho phù hợp, để có thể giành thắng lợi …
Ở một nước mà những người tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số dân cư thì chỉ có thể thực hiện cách mạng XHCN bằng một loạt những biện pháp quá độ, trong đó có việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần...
(3) Việc phân định các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ từ kinh tế tiểu nông lên CNXH phải phản ánh đúng tình hình kinh tế khách quan trong nước, phải sắp xếp các thành phần kinh tế từ thấp đến cao theo quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển lực lượng sản xuất và tiêu thức quan trọng nhất của mỗi thành phần kinh tế là quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
(4) Chính sự vận động và phát triển của các thành phần kinh tế từ thấp đến cao thể thiện xu hướng tiến lên CNXH...
(5) Do chính những quy luật phát triển của CNTB mà chế độ XHCN nhất định phải phát sinh, và đấu tranh chống CNTB không phải bằng cách làm chậm sự phát triển của kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước mà bằng cách đẩy nhanh sự phát triển của chúng lên. Dưới sự quản lý của nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thì có thể sử dụng CNTB tư nhân (chứ đừng nói gì chủ nghĩa tư bản nhà nước) để xúc tiến CNXH, để CNTB tư nhân đóng vai trò trợ thủ cho CNXH.
(6) Chỉ khi nào sức sản xuất của lao động xã hội và xã hội hóa sản xuất đạt đến trình độ rất cao không còn tương dung với chế độ sở hữu tư nhân TBCN nữa, khi ấy nó sẽ bị thay thế bằng chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Bởi vậy, không thể nóng vội xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân TBCN khi lực lượng sản xuất chưa đòi hỏi.
__________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2020
(1) V.I.Lênin: Toàn tập, t.43, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.68-69.
(2), (3) V.I.Lênin: Toàn tập, t.36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.313, 311.
(4), (5), (6), (7), (8), (10), (11), (12), (18) V.I.Lênin: Toàn tập, t.43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.445, 276, 267, 267, 400, 278, 280, 281, 271.
(9) Ngay trong giai đoạn trước khi thực hiện Chính sách kinh tế mới, trong tác phẩm “Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản” viết vào năm 1919, V.I.Lênin đã chỉ rõ đặc điểm kinh tế, chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH: trước hết, đó là nền kinh tế nhiều thành phần. Theo V.I.Lênin, khi đó xuất phát từ đặc điểm nước Nga Xôviết, bất cứ nước nào đi lên CNXH, thì trong nền kinh tế quá độ ở thời kỳ quá độ đều có ba thành phần kinh tế cơ bản là: kinh tế TBCN; kinh tế hàng hóa nhỏ; kinh tế XHCN. Đây là những luận điểm bước đầu của V.I.Lênin về nền kinh tế nhiều thành phần. Sau đó một thời gian ngắn, mùa xuân năm 1921, trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”, V.I.Lênin, trên cơ sở phân tích nền kinh tế nước Nga giai đoạn sau Chính sách cộng sản thời chiến, đã chỉ ra cụ thể hơn rằng: nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ lên CNXH là nền kinh tế nhiều thành phần, bao gồm 5 thành phần, như đã kể ra ở trên.
(13), (16) V.I.Lênin: Toàn tập, t.39, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.25, 365.
(14) V.I.Lênin: Toàn tập, t.35, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.684.
(15) V.I.Lênin: Toàn tập, t.25, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.375.
(17) V.I.Lênin: Toàn tập, t.44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 2006, tr.85.PGS, TS Vũ Văn Phúc
Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương
Bài liên quan
- Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
- Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
- Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
- Đôi nét về triết học ngoài mác-xít hiện đại
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Quản lý tác động của truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đến sinh viên đại học hiện nay
Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đang tác động ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng đến mọi người, nhất là thế hệ trẻ, trong đó có sinh viên các trường đại học trên cả bình diện tích cực và tiêu cực. Thực tế cho thấy, việc tác động của truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đến sinh viên có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng, cấp thiết nhằm tạo tâm lý lành mạnh trong cộng đồng sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của các trường đại học hiện nay. Vì vậy, bài viết làm rõ mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội; từ đó phân tích nội dung quản lý về tác động của truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đến cộng đồng sinh viên, đưa ra một số yêu cầu giúp quản lý, tạo dựng bầu không khí tâm lý lành mạnh trong cộng đồng sinh viên, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của các trường đại học trong bối cảnh hiện nay.
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, mặc dù không để lại những tác phẩm chuyên nghiên cứu về quản lý phát triển xã hội, nhưng qua các tác phẩm về kinh tế - chính trị, chính trị - xã hội của các ông, có thể rút ra những luận điểm cơ bản về quản lý phát triển xã hội. Các luận điểm này giúp các nhà quản lý xã hội thấy được bức tranh toàn cảnh xã hội một cách duy vật, cụ thể, với tính cách là kết quả hoạt động thực tiễn xã hội của con người.
Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
Sau khi hai tác phẩm kinh điển “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu và “Bàn về khế ước xã hội” của Rousseau chuyển bị về mặt lý luận cho Cách mạng dân chủ tư sản Pháp ra đời người ta thường nói đến thuộc tính pháp quyền gắn liền với nền dân chủ tư sản, người ta nói đến nhà nước pháp quyền tư sản, hệ thống dân chủ tư sản. Đến chủ nghĩa xã hội thì thuộc tính pháp quyền này lại ít được nhắc đến. Liệu chủ nghĩa xã hội có mang thuộc tính pháp quyền hay không và thuộc tính pháp quyền này khác với thuộc tính pháp quyên dân chủ tư sản như thế nào?
Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, lần đầu tiên vấn đề nhà nước được V.I.Lênin trình bày một cách có hệ thống. Giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm là đã làm sáng tỏ tính quy luật trong sự sinh thành, vận động và phát triển, đưa ra những dự báo khoa học về xu hướng và điều kiện về sự tự tiêu vong của nhà nước trong tiến trình tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị khoa học, cách mạng và tính thời sự. Trong tình hình hiện nay, nắm vững thực chất và vận dụng tư tưởng của tác phẩm là cơ sở vững chắc để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vừa là nhiệm vụ thường xuyên, vừa là công việc lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là nhiệm vụ khó khăn và phức tạp bởi “đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất của giai cấp vô sản”(1). Bài viết nghiên cứu tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch, phân tích ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc và vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin vào cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng ở nước ta hiện nay.
Bình luận