Ghi nhận từ một chiến dịch
1. Tình hình công tác Dân số kế hoạch hoá gia đình
Trong chương trình mục tiêu Quốc gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình (DS-KHHGĐ), việc tăng cường cung cấp và nâng cao chất lượng dịch vụ KHHGĐ luôn được coi là một trong những giải pháp cơ bản, là giải pháp có tác động trực tiếp đến mục tiêu giảm sinh. Do đẩy mạnh các hoạt động cung cấp dịch vụ KHHGĐ và sự hỗ trợ của tuyên truyền vận động, tỷ lệ chấp nhận sử dụng biện pháp tránh thai (BPTT) thời kỳ 1993 - 2000 liên tục tăng từ 53,7% lên 72,7%; bình quân mỗi năm tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai tăng gần 2%. Trong đó, tỷ lệ sử dụng các biện pháp hiện đại tăng từ 41,27% lên 61,1% góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu giảm sinh nhanh và liên tục, tỷ lệ sinh của cả nước giảm từ 25,8% còn 19,1%.
Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay, mức giảm sinh đã chững lại, tỷ lệ tăng dân số dừng lại xung quanh 1,32 - 1,35% hàng năm. Đáng chú ý là năm 2003, tỷ lệ tăng dân số của cả nước tăng mạnh trở lại từ 1,32% năm 2002 lên 1,47% và đến năm 2004 vẫn ở mức 1,43%, đặc biệt là tình trạng sinh con thứ 3 trở lên tăng mạnh ở nhiều địa phương, nhất là đối với cán bộ, đảng viên đã tác động tiêu cực đến phong trào nhân dân thực hiện KHHGĐ. Tình hình đó là hết sức đáng lo ngại đối với việc thực hiện mục tiêu giảm sinh, đạt mức sinh thay thế của cả nước và không đạt chỉ tiêu hạ tỷ lệ phát triển dân số năm 2005 mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Chiến lược Dân số Việt Nam 2001 - 2010 đã đề ra.
Để khắc phục tình trạng nói trên, các giải pháp của công tác DS - KHHGĐ nói chung và giải pháp dịch vụ KHHGĐ nói riêng phải được tăng cường và đổi mới cho phù hợp. Phương thức thực hiện là: Vừa đẩy mạnh các hoạt động cung cấp dịch vụ KHHGĐ thường xuyên, vừa triển khai những đợt Chiến dịch tăng cường cung cấp dịch vụ SKSS/KHHGĐ, đưa dịch vụ an toàn, thuận tiện đến từng người dân nhằm thực hiện bằng được mục tiêu giảm mức sinh.
2. Tình hình thực hiện Chiến dịch trước năm 2005
Kinh nghiệm nhiều năm cho thấy triển khai Chiến dịch truyền thông lồng ghép cung cấp dịch vụ KHHGĐ đến tận người dân luôn đạt kết quả rất tốt.
Từ cuối năm 2000, trước tình hình thực hiện mục tiêu của Chương trình DS - KHHGĐ có dấu hiệu khó khăn, chỉ tiêu các biện pháp tránh thai lâm sàng thực hiện đạt rất thấp, nhất là ở các vùng xa, vùng sâu, vùng khó khăn; song do nguồn ngân sách nước đầu tư cho Chiến dịch gặp khó khăn về vốn, Uỷ ban Quốc gia DS - KHHGĐ đã chủ động phối hợp với các cơ quan của Chính phủ thuyết phục nhà tài trợ, sử dụng nguồn vốn vay của Ngân hàng Thế giới triển khai 5 đợt Chiến dịch tăng cường cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hóa gia đình cho vùng xa, vùng sâu, vùng khó khăn nhằm 2 mục đích: Một là, tiếp tục giảm sinh ở những vùng có mức sinh cao hơn so với bình quân của cả nước; Hai là, tăng cường các dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ cho những đối tượng là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, mức thụ hưởng dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ thấp và cách khá xa so với yêu cầu chăm sóc SKSS/KHHGĐ của chương trình.
Quý III năm 2004 khi Tổng cục Thống kê công bố số liệu về tỷ lệ phát triển dân số năm 2003 tăng mạnh trở lại, Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (DS, GĐ&TE) đã quyết định giải pháp cấp bách triển khai đợt Chiến dịch tăng cường tuyên truyền, vận động lồng ghép cung cấp dịch vụ KHHGĐ tại 38 tỉnh, thành phố đông dân với mức sinh cao trong quý IV/2004 nhằm góp phần chặn đứng mức sinh tăng nhanh trở lại. Đợt Chiến dịch ở 38 tỉnh đã đạt kết quả tốt, được nhân dân hưởng ứng và được chứng minh là một giải pháp quan trọng trước tình hình mức sinh tăng trở lại, huy động được sự tham gia của các cấp, các ngành. Tuy nhiên, hậu quả của tăng nhanh dân số trở lại không thể được giải quyết một sớm một chiều mà phải có giải pháp tích cực, liên tục và đồng bộ.
Để tiếp tục triển khai giải pháp quan trọng này trong năm 2005, Uỷ ban DS, GĐ&TE đã tăng cường đầu tư nguồn lực, mở rộng địa bàn và quyết định tổ chức Chiến dịch tăng cường tuyên truyền, vận động lồng ghép dịch vụ SKSS/KHHGĐ đến vùng có mức sinh cao, tỷ lệ sinh con thứ 3 cao và vùng khó khăn (gọi tắt là Chiến dịch năm 2005).
Uỷ ban DS,GĐ&TE đã chỉ đạo, định hướng kế hoạch Chiến dịch năm 2005 tập trung vào hai địa bàn trọng điểm là vùng có mức sinh cao, tỷ lệ sinh con thứ 3 cao và vùng khó khăn tại 58 tỉnh, thành phố. Theo kế hoạch xây dựng từ các địa phương, địa bàn Chiến dịch năm 2005 sẽ được triển khai tại 7.647 xã thuộc 560 huyện, thị xã (chiếm 74,7% tổng số xã, phường các tỉnh Chiến dịch), trong đó có 4.964 xã vùng khó khăn. Tổng dân số địa bàn Chiến dịch trên 54 triệu người, chiếm 65,7% dân số cả nước, trong đó đối tượng thụ hưởng xấp xỉ 10 triệu phụ nữ 15 - 49 tuổi có chồng, chiếm 70% tổng số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ của cả nước.
Chiến dịch đợt I đã triển khai tại 6.549 xã của 604 huyện thuộc 61 tỉnh, thành phố, đạt 95,4% kế hoạch số xã đợt I (Tăng gấp 2,7 lần số xã Chiến dịch quý IV/2004 là 2.438 xã). Trong đó, có 4 tỉnh: Hà Nam, Đà Nẵng, Bình Dương và Hậu Giang tuy chưa được Trung ương bố trí kinh phí Chiến dịch (vì không có địa bàn xã đặc biệt khó khăn và không thuộc nhóm tỉnh có từ 1 triệu dân trở lên) nhưng đã chủ động đầu tư ngân sách địa phương triển khai Chiến dịch đợt I tại 252/ tổng số 306 xã, phường của tỉnh.
Riêng tỉnh Tuyên Quang do công tác chuẩn bị chậm và chưa đủ điều kiện nên không kịp triển khai đợt I Chiến dịch cả nước mà thực hiện chung vào đợt II.
Kinh phí đầu tư cho Chiến dịch năm 2005 là 61.944 triệu đồng, trong đó có 14.102 triệu đồng từ ngân sách địa phương. Trong đợt I, các tỉnh báo cáo đã sử dụng kinh phí 39.779 triệu đồng, chiếm 64,2% kinh phí chiến dịch cả năm. Đáng chú ý là có 4 tỉnh đầu tư ngân sách địa phương trên 500 triệu đồng là: Sóc Trăng, An Giang, Trà Vinh và Long An; có 11 tỉnh đã đầu từ ngân sách từ 200 đến 490 triệu đồng để tăng cường triển khai Chiến dịch.
Đặc biệt biểu dương 4 tỉnh Hà Nam, Đà Nẵng, Bình Dương, và Hậu Giang đã đầu từ 100% kinh phí Chiến dịch từ ngân sách địa phương với 2.696 triệu đồng.
3. Tổ chức chỉ đạo điều hành chiến dịch
Sau Hội nghị tổng kết công tác năm 2004 và phổ biến kế hoạch năm 2005, Uỷ ban DS, GĐ&TE Trung ương đã ban hành văn bản kế hoạch triển khai Chiến dịch hướng dẫn các địa phương. Từ đó tăng cường đôn đốc, chỉ đạo tình hình triển khai của các địa phương, thường xuyên theo dõi tổng hợp tình hình và đã 4 lần thông báo kết quả thực hiện Chiến dịch đợt I của các địa phương đến Uỷ ban Nhân dân, Uỷ ban DS, GĐ&TE các tỉnh, thành phố để thúc đẩy tiến độ triển khai Chiến dịch. Uỷ ban DS, GĐ&TE Trung ương đã phối hợp với Bộ Y tế tổ chức giao ban với lãnh đạo Sở Y tế, lãnh đạo Uỷ ban DS, GĐ&TE các tỉnh, thành phố để phổ biến kế hoạch phối hợp triển khai Chiến dịch năm 2005, thống nhất huy động lực lượng cán bộ, dụng cụ và trang thiết bị của ngành Y tế các địa phương phục vụ Chiến dịch.
Công tác kiểm tra giám sát: Lãnh đạo Uỷ ban và lãnh đạo, chuyên viên các vụ, đơn vị của Uỷ ban DS, GĐ&TE Trung ương đã thực hiện 2 đợt giám sát địa bàn trong tháng 2 và tháng 3.2005. Tổng số 36 giám sát viên Trung ương đã tiến hành giám sát tại 110 xã, 85 huyện của 40 tỉnh, thành phố. Do đặc điểm của Chiến dịch diễn ra sau dịp nghỉ tết ất Dậu nên 34 cán bộ đã được huy động giám sát trong thời kỳ chuẩn bị Chiến dịch, phát hiện một số tình hình quan trọng về việc Chiến dịch có thể triển khai và kết thúc muộn ở một số tỉnh do vướng mắc trong cơ chế quản lý Chương trình mục tiêu ở địa phương, do kinh phí và nguồn lực chưa sẵn sàng trong những tháng đầu năm...
Công tác tuyên truyền giáo dục, đặc biệt là tăng cường tuyên truyền vận động đối tượng trong Chiến dịch có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy, nét mới trong hoạt động tuyên truyền vận động trong Chiến dịch được đầu tư kinh phí và hướng dẫn tăng cường tổ chức thực hiện tại địa bàn với thông điệp chủ yếu là: "Dừng lại ở 2 con để nuôi, dạy cho tốt", coi chỉ tiêu và nội dung giảm số lượng và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên là định hướng quan trọng ngay từ khi phân loại đối tượng để tuyên truyền vận động. Một số mô hình quản lý, phân loại đối tượng (số đã có 1-2 con, số trường hợp chưa sử dụng biện pháp tránh thai để tập trung tuyên truyền, vận động như ở Thái Nguyên, Nam Định, Ninh Bình, An Giang, Long An, Sóc Trăng, Lâm Đồng... đã phát huy tác dụng và đạt kết quả tốt). Tại Trung ương, Uỷ ban DS,GĐ&TE đã phối hợp với một số báo của Trung ương và Hà Nội cử phóng viên đi địa bàn xã, huyện Chiến dịch; các báo đã cung cấp và đăng tải tin bài về tình hình triển khai Chiến dịch do báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Gia đình và Xã hội, Tiền Phong, Nông thôn ngày nay, báo Người đại diện Nhân dân, Sức khoẻ và Đời sống, báo Phụ nữ Việt Nam... thực hiện. Đài Truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam đã phát nhiều buổi các tin, bài phản ánh hoạt động của Chiến dịch trong tháng 2,3.2005.
Tại các địa phương: Theo báo cáo của các tỉnh, thành phố đã tổ chức hội nghị chuyên đề, lễ phát động Chiến dịch, chủ yếu thực hiện ở cấp huyện, xã. Đã thực hiện gần 37 ngàn lượt buổi phát thanh, truyền thanh, truyền hình; tổ chức 5.382 buổi cổ động; 16.844 buổi nói chuyện chuyên đề, toạ đàm; kẻ vẽ 29.686 panô, áp phích, khẩu hiệu để thúc đẩy phong trào của Chiến dịch. Sau khi Nghị quyết của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chính sách Dân số và Kế hoạch hóa gia đình, các cơ quan truyền thông đại chúng của Trung ương và các địa phương đã tập trung đưa tin, bài về sự kiện quan trọng này trong các hoạt động của Chiến dịch. Một nội dung quan trọng của Nghị quyết là "Tăng cường các Chiến dịch chăm sóc sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hoá gia đình đối với vùng nông thôn, vùng đông dân, có mức sinh cao, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn" đã tiếp thêm sức mạnh và động lực cho chương trình cả nước và trên toàn bộ địa bàn Chiến dịch.
4. Kết quả thực hiện 3 gói dịch vụ SKSS/KHHGĐ
Theo báo cáo của 61 tỉnh, thành phố (Tuyên Quang triển khai vào đợt II), Chiến dịch đợt I đã thực hiện một khối lượng dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ rất lớn
Các biện pháp tránh thai hiện đại: Tổng số biện pháp tránh thai hiện đại đã thực hiện là 1.657.152 trường hợp, đạt 109,6% kế hoạch Chiến dịch đợt I. So với chỉ tiêu BPTT cả năm của các tỉnh đạt 46,2% kế hoạch. Tổng số có 40 tỉnh đạt 100% - 227% kế hoạch Chiến dịch đợt I, trong đó có 5 tỉnh đạt cao nhất là: Điện Biên, Bình Thuận, Quảng Bình, Long An, Thái Nguyên
Các biện pháp lâm sàng (triệt sản, đặt vòng, thuốc tiêm, cấy): Đã thực hiện 438.528 lượt dịch vụ, đạt 85,2% kế hoạch đợt I và đạt 31% kế hoạch cả năm 2005 của các tỉnh Chiến dịch. Đặc biệt có 13 tỉnh đạt chỉ tiêu các biện pháp lâm sàng so với kế hoạch cả năm của toàn tỉnh cao nhất: Hậu Giang 83%; Bình Dương 83%; Hà Nam 59%; Ninh Bình 56%; Đà Nẵng 54%; Gia Lai 53%; Đăk Lăk 51%; Thừa Thiên Huế 49%; Đồng Tháp 48%; Bình Thuận 41%; Long An 41%; An Giang 41%; Vĩnh Phúc 40%.
Uỷ ban DS,GĐ&TE Trung ương đánh giá cao 27 tỉnh đạt và vượt chỉ tiêu các biện pháp tránh thai lâm sàng kế hoạch đợt I; Trong đó 6 tỉnh đạt chỉ tiêu cao nhất là: Điện Biên, Gia Lai, Quảng Bình, Hải Dương, Thái Bình, Nghệ An.
Tuy nhiên, có một số tỉnh do triển khai Chiến dịch muộn nên các biện pháp lâm sàng kế hoạch đợt I đạt kết quả thấp như: Bến Tre, 33,3%; Hà Giang 33,8%.
+ Triệt sản: Tổng số thực hiện 7.339 ca, đạt 74,3% kế hoạch đợt I và chiếm 19,3% chỉ tiêu kế hoạch cả năm 2005 của các tỉnh Chiến dịch.
Những tỉnh đạt số ca cao nhất là: Đồng Tháp 691 ca; Đăk Lăk 512 ca; Đồng Nai 500 ca; Cần Thơ 449 ca; Tp Hồ Chí Minh 425 ca; Long An 350 ca; Lâm Đồng 320 ca; Hậu Giang 320 ca; Phú Yên 329 ca; Hà Nam 300 ca; Bình Dương 300 ca; An Giang 300 ca.
+ Đặt vòng: Tổng số thực hiện 365.061 ca, đạt 82,8% kế hoạch đợt I chiếm 29,5% chỉ tiêu kế hoạch cả năm 2005 của các tỉnh Chiến dịch.
Trong tổng số 24 tỉnh đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đặt vòng đợt I, có 9 tỉnh đạt chỉ tiêu kế hoạch cao nhất là Điện Biên, Hải Dương, Quảng Bình, Bình Định, Nghệ An, Thái Bình, Trà Vinh, Bạc Liêu, Hà Tĩnh.
+ Thuốc tiêm, thuốc cấy: Tổng số thực hiện 66.128 trường hợp, đạt 108,3% kế hoạch Chiến dịch đợt I và đạt 47,1% chỉ tiêu kế hoạch cả năm của các tỉnh Chiến dịch.
Trong tổng số 36 tỉnh đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch thuốc tiêm, cấy đợt I, có 5 tỉnh đạt kết quả cao nhất là: Quảng Bình, Gia Lai, Quảng Ninh, Nam Định, Nghệ An
Các biện pháp phi lâm sàng:
+ Thuốc viên: Thực hiện 603.530 trường hợp, đạt 123,6% chỉ tiêu kế hoạch đợt I và đạt 59,17% kế hoạch năm của các tỉnh Chiến dịch.
+ Bao cao su: Thực hiện 615.094 trường hợp, đạt 120,5% chỉ tiêu kế hoạch đợt I và đạt 53,6% kế hoạch cả năm của các tỉnh Chiến dịch.
Tổng cộng đã cung cấp dịch vụ LMAT cho 802.153 lượt phụ nữ có thai. Trong đó: Khám thai cho 355.204 lượt phụ nữ có thai, đạt 97% kế hoạch đợt I; cấp viên sắt cho 210.159 lượt phụ nữ có thai, đạt 86% kế hoạch đợt I; Tiêm phòng uốn ván cho 194.168 lượt phụ nữ có thai, đạt 84,5% kế hoạch đợt I và cấp 42.622 gói đẻ sạch, đạt 101,6% kế hoạch đợt I.
5. Kết quả gói phòng chống bệnh viêm nhiễm đường sinh sản (VNĐSS)
Khám phụ khoa 1.999.197 lượt phụ nữ, đạt 101,2% kế hoạch Chiến dịch đợt I. Bình quân 1 xã đã khám 228 trường hợp, những tỉnh đạt số khám cao nhất là Nam Định, Cao Bằng, Điện Biên, Quảng Trị... Tại Bắc Giang, tuy triển khai Chiến dịch muộn, nhưng đã thực hiện những mô hình tuyên truyền vận động khám sức khoẻ cho cả vợ và chồng tại xã Vô Tranh (Thái Nguyên), huyện Lục Nam (Bắc Giang); kết quả Chiến dịch đợt I đã khám được 110 cặp vợ chồng trong chương trình phối hợp với hội LHPN tỉnh.
Số phụ nữ phát hiện mắc bệnh phụ khoa 1.126.359 trường hợp, đạt 100.4% kế hoạch Chiến dịch đợt I. Tỷ lệ mắc bệnh so với phụ nữ được khám là 56,3% là khá thấp so với các đợt chiến dịch trước. Chỉ số này cần xem xét và phân tích thêm.
Số phụ nữ được điều trị là 1.094.391 trường hợp, đạt 98,6% kế hoạch đợt I và chiếm 97,1% tổng số phát hiện mắc bệnh. Những tỉnh có số phụ nữ được điều trị cao nhất là: Nam Định, Cao Bằng, Cần Thơ, Bình Định...
Tư tưởng chỉ đạo của Uỷ ban DS,GĐ&TE Trung ương là triển khai Chiến dịch ngày càng mạnh hơn, tập trung hơn và kết quả cao hơn nhằm hướng tới mục tiêu đạt mức sinh thay thế. Chiến dịch đợt I năm 2005 đã đạt được kết quả khá toàn diện, thể hiện trên các nội dung sau đây:
Qua báo cáo của các địa phương, do kết quả triển khai Chiến dịch đến vùng khó khăn và đợt Quý IV-2004, số người mang thai đầu năm 2005 giảm khá, tiếp theo Chiến dịch đợt I-2005 với kết quả này sẽ góp phần tích cực hạn chế số sinh trong năm 2005. Đặc biệt đã tạo khí thế mới, quyết tâm cao đối với việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGĐ đến tận người dân.
Chiến dịch đợt I năm 2005 được các cấp uỷ đảng, chính quyền quan tâm chỉ đạo, huy động sự tham gia của các ngành, đoàn thể và sự hưởng ứng tích cực của nhân dân. Kết quả Chiến dịch đợt I đã góp phần khẳng định quyết tâm đưa Chiến dịch trở thành giải pháp trọng điểm của Chương trình mục tiêu quốc gia DS-KHHGĐ giai đoạn 2006-2010. Vấn đề về tổ chức, điều hành Chiến dịch được Uỷ ban DS,GĐ&TE các cấp quan tâm. Nhiều tỉnh đã thực hiện tốt chế độ báo cáo định kỳ và báo cáo nhanh Chiến dịch như theo yêu cầu của Trung ương./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 4 (tháng 7+8)/2005
Bài liên quan
- Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
- Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
- Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
- Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
- Về con đường đi tới của Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ và tầm nhìn cho kỷ nguyên mới
Xem nhiều
- 1 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 2 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 3 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 4 Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- 5 Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- 6 Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
Ngày 17/11/2017, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Quan điểm chỉ đạo được nhấn mạnh trong Nghị quyết (NQ) là: “…chủ động thích ứng, phát huy tiềm năng, thế mạnh, chuyển hóa những thách thức thành cơ hội để phát triển, bảo đảm được cuộc sống ổn định…” (1). NQ này đã được các cơ quan liên quan, trong đó có các cơ quan báo chí quán triệt, triển khai thực hiện. Tuy nhiên, để “chuyển hóa những thách thức thành cơ hội”, nhất là với vùng đồng bằng sông Cửu Long, để phát triển bền vững, an toàn, thịnh vượng thì vai trò, trách nhiệm của báo chí cần được nhận thức đầy đủ, chủ động hơn.
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Việt Nam - Cuba là biểu tượng sáng ngời về tình đoàn kết hữu nghị quốc tế. Hai dân tộc đã sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tình hữu nghị đặc biệt này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Fidel Castro vun đắp qua nhiều thế hệ và trở thành một tài sản vô giá của cả hai dân tộc.
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện) là đơn vị sự nghiệp công lập, có chức năng đào tạo đại học, sau đại học các ngành lý luận chính trị, báo chí, truyền thông, kinh tế, xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội…, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ các cấp. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Học viện cần có cơ chế tài chính phù hợp nhằm huy động tối đa nguồn lực tài chính và phân phối, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tạo động lực thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong những năm qua, thực hiện cơ chế tài chính ở Học viện đã có những chuyển biến tích cực, các nguồn thu đảm bảo chi, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Học viện. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu nguồn lực tài chính cho chiến lược phát triển giai đoạn mới của Học viện, công tác thực hiện cơ chế quản lý tài chính cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện.
Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
Trong 33 năm làm việc ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền, tôi có 30 năm gắn bó với Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, cho dù tôi không phải trực tiếp biên chế công tác tại đây.
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác văn hóa, văn nghệ, trong những năm qua, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã quan tâm lãnh đạo công tác này, qua đó đạt được một số kết quả khá quan trọng, đóng góp vào sự phát triển chung về kinh tế - văn hóa - xã hội của Thành phố. Trên cơ sở phân tích thực trạng lãnh đạo công tác văn hóa, văn nghệ của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, bài viết đề xuất một số giải pháp giúp tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy đối với công tác này trong thời gian tới.
Bình luận