Ghi nhận từ một chiến dịch
1. Tình hình công tác Dân số kế hoạch hoá gia đình
Trong chương trình mục tiêu Quốc gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình (DS-KHHGĐ), việc tăng cường cung cấp và nâng cao chất lượng dịch vụ KHHGĐ luôn được coi là một trong những giải pháp cơ bản, là giải pháp có tác động trực tiếp đến mục tiêu giảm sinh. Do đẩy mạnh các hoạt động cung cấp dịch vụ KHHGĐ và sự hỗ trợ của tuyên truyền vận động, tỷ lệ chấp nhận sử dụng biện pháp tránh thai (BPTT) thời kỳ 1993 - 2000 liên tục tăng từ 53,7% lên 72,7%; bình quân mỗi năm tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai tăng gần 2%. Trong đó, tỷ lệ sử dụng các biện pháp hiện đại tăng từ 41,27% lên 61,1% góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu giảm sinh nhanh và liên tục, tỷ lệ sinh của cả nước giảm từ 25,8% còn 19,1%.
Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay, mức giảm sinh đã chững lại, tỷ lệ tăng dân số dừng lại xung quanh 1,32 - 1,35% hàng năm. Đáng chú ý là năm 2003, tỷ lệ tăng dân số của cả nước tăng mạnh trở lại từ 1,32% năm 2002 lên 1,47% và đến năm 2004 vẫn ở mức 1,43%, đặc biệt là tình trạng sinh con thứ 3 trở lên tăng mạnh ở nhiều địa phương, nhất là đối với cán bộ, đảng viên đã tác động tiêu cực đến phong trào nhân dân thực hiện KHHGĐ. Tình hình đó là hết sức đáng lo ngại đối với việc thực hiện mục tiêu giảm sinh, đạt mức sinh thay thế của cả nước và không đạt chỉ tiêu hạ tỷ lệ phát triển dân số năm 2005 mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Chiến lược Dân số Việt Nam 2001 - 2010 đã đề ra.
Để khắc phục tình trạng nói trên, các giải pháp của công tác DS - KHHGĐ nói chung và giải pháp dịch vụ KHHGĐ nói riêng phải được tăng cường và đổi mới cho phù hợp. Phương thức thực hiện là: Vừa đẩy mạnh các hoạt động cung cấp dịch vụ KHHGĐ thường xuyên, vừa triển khai những đợt Chiến dịch tăng cường cung cấp dịch vụ SKSS/KHHGĐ, đưa dịch vụ an toàn, thuận tiện đến từng người dân nhằm thực hiện bằng được mục tiêu giảm mức sinh.
2. Tình hình thực hiện Chiến dịch trước năm 2005
Kinh nghiệm nhiều năm cho thấy triển khai Chiến dịch truyền thông lồng ghép cung cấp dịch vụ KHHGĐ đến tận người dân luôn đạt kết quả rất tốt.
Từ cuối năm 2000, trước tình hình thực hiện mục tiêu của Chương trình DS - KHHGĐ có dấu hiệu khó khăn, chỉ tiêu các biện pháp tránh thai lâm sàng thực hiện đạt rất thấp, nhất là ở các vùng xa, vùng sâu, vùng khó khăn; song do nguồn ngân sách nước đầu tư cho Chiến dịch gặp khó khăn về vốn, Uỷ ban Quốc gia DS - KHHGĐ đã chủ động phối hợp với các cơ quan của Chính phủ thuyết phục nhà tài trợ, sử dụng nguồn vốn vay của Ngân hàng Thế giới triển khai 5 đợt Chiến dịch tăng cường cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hóa gia đình cho vùng xa, vùng sâu, vùng khó khăn nhằm 2 mục đích: Một là, tiếp tục giảm sinh ở những vùng có mức sinh cao hơn so với bình quân của cả nước; Hai là, tăng cường các dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ cho những đối tượng là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, mức thụ hưởng dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ thấp và cách khá xa so với yêu cầu chăm sóc SKSS/KHHGĐ của chương trình.
Quý III năm 2004 khi Tổng cục Thống kê công bố số liệu về tỷ lệ phát triển dân số năm 2003 tăng mạnh trở lại, Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (DS, GĐ&TE) đã quyết định giải pháp cấp bách triển khai đợt Chiến dịch tăng cường tuyên truyền, vận động lồng ghép cung cấp dịch vụ KHHGĐ tại 38 tỉnh, thành phố đông dân với mức sinh cao trong quý IV/2004 nhằm góp phần chặn đứng mức sinh tăng nhanh trở lại. Đợt Chiến dịch ở 38 tỉnh đã đạt kết quả tốt, được nhân dân hưởng ứng và được chứng minh là một giải pháp quan trọng trước tình hình mức sinh tăng trở lại, huy động được sự tham gia của các cấp, các ngành. Tuy nhiên, hậu quả của tăng nhanh dân số trở lại không thể được giải quyết một sớm một chiều mà phải có giải pháp tích cực, liên tục và đồng bộ.
Để tiếp tục triển khai giải pháp quan trọng này trong năm 2005, Uỷ ban DS, GĐ&TE đã tăng cường đầu tư nguồn lực, mở rộng địa bàn và quyết định tổ chức Chiến dịch tăng cường tuyên truyền, vận động lồng ghép dịch vụ SKSS/KHHGĐ đến vùng có mức sinh cao, tỷ lệ sinh con thứ 3 cao và vùng khó khăn (gọi tắt là Chiến dịch năm 2005).
Uỷ ban DS,GĐ&TE đã chỉ đạo, định hướng kế hoạch Chiến dịch năm 2005 tập trung vào hai địa bàn trọng điểm là vùng có mức sinh cao, tỷ lệ sinh con thứ 3 cao và vùng khó khăn tại 58 tỉnh, thành phố. Theo kế hoạch xây dựng từ các địa phương, địa bàn Chiến dịch năm 2005 sẽ được triển khai tại 7.647 xã thuộc 560 huyện, thị xã (chiếm 74,7% tổng số xã, phường các tỉnh Chiến dịch), trong đó có 4.964 xã vùng khó khăn. Tổng dân số địa bàn Chiến dịch trên 54 triệu người, chiếm 65,7% dân số cả nước, trong đó đối tượng thụ hưởng xấp xỉ 10 triệu phụ nữ 15 - 49 tuổi có chồng, chiếm 70% tổng số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ của cả nước.
Chiến dịch đợt I đã triển khai tại 6.549 xã của 604 huyện thuộc 61 tỉnh, thành phố, đạt 95,4% kế hoạch số xã đợt I (Tăng gấp 2,7 lần số xã Chiến dịch quý IV/2004 là 2.438 xã). Trong đó, có 4 tỉnh: Hà Nam, Đà Nẵng, Bình Dương và Hậu Giang tuy chưa được Trung ương bố trí kinh phí Chiến dịch (vì không có địa bàn xã đặc biệt khó khăn và không thuộc nhóm tỉnh có từ 1 triệu dân trở lên) nhưng đã chủ động đầu tư ngân sách địa phương triển khai Chiến dịch đợt I tại 252/ tổng số 306 xã, phường của tỉnh.
Riêng tỉnh Tuyên Quang do công tác chuẩn bị chậm và chưa đủ điều kiện nên không kịp triển khai đợt I Chiến dịch cả nước mà thực hiện chung vào đợt II.
Kinh phí đầu tư cho Chiến dịch năm 2005 là 61.944 triệu đồng, trong đó có 14.102 triệu đồng từ ngân sách địa phương. Trong đợt I, các tỉnh báo cáo đã sử dụng kinh phí 39.779 triệu đồng, chiếm 64,2% kinh phí chiến dịch cả năm. Đáng chú ý là có 4 tỉnh đầu tư ngân sách địa phương trên 500 triệu đồng là: Sóc Trăng, An Giang, Trà Vinh và Long An; có 11 tỉnh đã đầu từ ngân sách từ 200 đến 490 triệu đồng để tăng cường triển khai Chiến dịch.
Đặc biệt biểu dương 4 tỉnh Hà Nam, Đà Nẵng, Bình Dương, và Hậu Giang đã đầu từ 100% kinh phí Chiến dịch từ ngân sách địa phương với 2.696 triệu đồng.
3. Tổ chức chỉ đạo điều hành chiến dịch
Sau Hội nghị tổng kết công tác năm 2004 và phổ biến kế hoạch năm 2005, Uỷ ban DS, GĐ&TE Trung ương đã ban hành văn bản kế hoạch triển khai Chiến dịch hướng dẫn các địa phương. Từ đó tăng cường đôn đốc, chỉ đạo tình hình triển khai của các địa phương, thường xuyên theo dõi tổng hợp tình hình và đã 4 lần thông báo kết quả thực hiện Chiến dịch đợt I của các địa phương đến Uỷ ban Nhân dân, Uỷ ban DS, GĐ&TE các tỉnh, thành phố để thúc đẩy tiến độ triển khai Chiến dịch. Uỷ ban DS, GĐ&TE Trung ương đã phối hợp với Bộ Y tế tổ chức giao ban với lãnh đạo Sở Y tế, lãnh đạo Uỷ ban DS, GĐ&TE các tỉnh, thành phố để phổ biến kế hoạch phối hợp triển khai Chiến dịch năm 2005, thống nhất huy động lực lượng cán bộ, dụng cụ và trang thiết bị của ngành Y tế các địa phương phục vụ Chiến dịch.
Công tác kiểm tra giám sát: Lãnh đạo Uỷ ban và lãnh đạo, chuyên viên các vụ, đơn vị của Uỷ ban DS, GĐ&TE Trung ương đã thực hiện 2 đợt giám sát địa bàn trong tháng 2 và tháng 3.2005. Tổng số 36 giám sát viên Trung ương đã tiến hành giám sát tại 110 xã, 85 huyện của 40 tỉnh, thành phố. Do đặc điểm của Chiến dịch diễn ra sau dịp nghỉ tết ất Dậu nên 34 cán bộ đã được huy động giám sát trong thời kỳ chuẩn bị Chiến dịch, phát hiện một số tình hình quan trọng về việc Chiến dịch có thể triển khai và kết thúc muộn ở một số tỉnh do vướng mắc trong cơ chế quản lý Chương trình mục tiêu ở địa phương, do kinh phí và nguồn lực chưa sẵn sàng trong những tháng đầu năm...
Công tác tuyên truyền giáo dục, đặc biệt là tăng cường tuyên truyền vận động đối tượng trong Chiến dịch có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy, nét mới trong hoạt động tuyên truyền vận động trong Chiến dịch được đầu tư kinh phí và hướng dẫn tăng cường tổ chức thực hiện tại địa bàn với thông điệp chủ yếu là: "Dừng lại ở 2 con để nuôi, dạy cho tốt", coi chỉ tiêu và nội dung giảm số lượng và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên là định hướng quan trọng ngay từ khi phân loại đối tượng để tuyên truyền vận động. Một số mô hình quản lý, phân loại đối tượng (số đã có 1-2 con, số trường hợp chưa sử dụng biện pháp tránh thai để tập trung tuyên truyền, vận động như ở Thái Nguyên, Nam Định, Ninh Bình, An Giang, Long An, Sóc Trăng, Lâm Đồng... đã phát huy tác dụng và đạt kết quả tốt). Tại Trung ương, Uỷ ban DS,GĐ&TE đã phối hợp với một số báo của Trung ương và Hà Nội cử phóng viên đi địa bàn xã, huyện Chiến dịch; các báo đã cung cấp và đăng tải tin bài về tình hình triển khai Chiến dịch do báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Gia đình và Xã hội, Tiền Phong, Nông thôn ngày nay, báo Người đại diện Nhân dân, Sức khoẻ và Đời sống, báo Phụ nữ Việt Nam... thực hiện. Đài Truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam đã phát nhiều buổi các tin, bài phản ánh hoạt động của Chiến dịch trong tháng 2,3.2005.
Tại các địa phương: Theo báo cáo của các tỉnh, thành phố đã tổ chức hội nghị chuyên đề, lễ phát động Chiến dịch, chủ yếu thực hiện ở cấp huyện, xã. Đã thực hiện gần 37 ngàn lượt buổi phát thanh, truyền thanh, truyền hình; tổ chức 5.382 buổi cổ động; 16.844 buổi nói chuyện chuyên đề, toạ đàm; kẻ vẽ 29.686 panô, áp phích, khẩu hiệu để thúc đẩy phong trào của Chiến dịch. Sau khi Nghị quyết của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chính sách Dân số và Kế hoạch hóa gia đình, các cơ quan truyền thông đại chúng của Trung ương và các địa phương đã tập trung đưa tin, bài về sự kiện quan trọng này trong các hoạt động của Chiến dịch. Một nội dung quan trọng của Nghị quyết là "Tăng cường các Chiến dịch chăm sóc sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hoá gia đình đối với vùng nông thôn, vùng đông dân, có mức sinh cao, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn" đã tiếp thêm sức mạnh và động lực cho chương trình cả nước và trên toàn bộ địa bàn Chiến dịch.
4. Kết quả thực hiện 3 gói dịch vụ SKSS/KHHGĐ
Theo báo cáo của 61 tỉnh, thành phố (Tuyên Quang triển khai vào đợt II), Chiến dịch đợt I đã thực hiện một khối lượng dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ rất lớn
Các biện pháp tránh thai hiện đại: Tổng số biện pháp tránh thai hiện đại đã thực hiện là 1.657.152 trường hợp, đạt 109,6% kế hoạch Chiến dịch đợt I. So với chỉ tiêu BPTT cả năm của các tỉnh đạt 46,2% kế hoạch. Tổng số có 40 tỉnh đạt 100% - 227% kế hoạch Chiến dịch đợt I, trong đó có 5 tỉnh đạt cao nhất là: Điện Biên, Bình Thuận, Quảng Bình, Long An, Thái Nguyên
Các biện pháp lâm sàng (triệt sản, đặt vòng, thuốc tiêm, cấy): Đã thực hiện 438.528 lượt dịch vụ, đạt 85,2% kế hoạch đợt I và đạt 31% kế hoạch cả năm 2005 của các tỉnh Chiến dịch. Đặc biệt có 13 tỉnh đạt chỉ tiêu các biện pháp lâm sàng so với kế hoạch cả năm của toàn tỉnh cao nhất: Hậu Giang 83%; Bình Dương 83%; Hà Nam 59%; Ninh Bình 56%; Đà Nẵng 54%; Gia Lai 53%; Đăk Lăk 51%; Thừa Thiên Huế 49%; Đồng Tháp 48%; Bình Thuận 41%; Long An 41%; An Giang 41%; Vĩnh Phúc 40%.
Uỷ ban DS,GĐ&TE Trung ương đánh giá cao 27 tỉnh đạt và vượt chỉ tiêu các biện pháp tránh thai lâm sàng kế hoạch đợt I; Trong đó 6 tỉnh đạt chỉ tiêu cao nhất là: Điện Biên, Gia Lai, Quảng Bình, Hải Dương, Thái Bình, Nghệ An.
Tuy nhiên, có một số tỉnh do triển khai Chiến dịch muộn nên các biện pháp lâm sàng kế hoạch đợt I đạt kết quả thấp như: Bến Tre, 33,3%; Hà Giang 33,8%.
+ Triệt sản: Tổng số thực hiện 7.339 ca, đạt 74,3% kế hoạch đợt I và chiếm 19,3% chỉ tiêu kế hoạch cả năm 2005 của các tỉnh Chiến dịch.
Những tỉnh đạt số ca cao nhất là: Đồng Tháp 691 ca; Đăk Lăk 512 ca; Đồng Nai 500 ca; Cần Thơ 449 ca; Tp Hồ Chí Minh 425 ca; Long An 350 ca; Lâm Đồng 320 ca; Hậu Giang 320 ca; Phú Yên 329 ca; Hà Nam 300 ca; Bình Dương 300 ca; An Giang 300 ca.
+ Đặt vòng: Tổng số thực hiện 365.061 ca, đạt 82,8% kế hoạch đợt I chiếm 29,5% chỉ tiêu kế hoạch cả năm 2005 của các tỉnh Chiến dịch.
Trong tổng số 24 tỉnh đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đặt vòng đợt I, có 9 tỉnh đạt chỉ tiêu kế hoạch cao nhất là Điện Biên, Hải Dương, Quảng Bình, Bình Định, Nghệ An, Thái Bình, Trà Vinh, Bạc Liêu, Hà Tĩnh.
+ Thuốc tiêm, thuốc cấy: Tổng số thực hiện 66.128 trường hợp, đạt 108,3% kế hoạch Chiến dịch đợt I và đạt 47,1% chỉ tiêu kế hoạch cả năm của các tỉnh Chiến dịch.
Trong tổng số 36 tỉnh đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch thuốc tiêm, cấy đợt I, có 5 tỉnh đạt kết quả cao nhất là: Quảng Bình, Gia Lai, Quảng Ninh, Nam Định, Nghệ An
Các biện pháp phi lâm sàng:
+ Thuốc viên: Thực hiện 603.530 trường hợp, đạt 123,6% chỉ tiêu kế hoạch đợt I và đạt 59,17% kế hoạch năm của các tỉnh Chiến dịch.
+ Bao cao su: Thực hiện 615.094 trường hợp, đạt 120,5% chỉ tiêu kế hoạch đợt I và đạt 53,6% kế hoạch cả năm của các tỉnh Chiến dịch.
Tổng cộng đã cung cấp dịch vụ LMAT cho 802.153 lượt phụ nữ có thai. Trong đó: Khám thai cho 355.204 lượt phụ nữ có thai, đạt 97% kế hoạch đợt I; cấp viên sắt cho 210.159 lượt phụ nữ có thai, đạt 86% kế hoạch đợt I; Tiêm phòng uốn ván cho 194.168 lượt phụ nữ có thai, đạt 84,5% kế hoạch đợt I và cấp 42.622 gói đẻ sạch, đạt 101,6% kế hoạch đợt I.
5. Kết quả gói phòng chống bệnh viêm nhiễm đường sinh sản (VNĐSS)
Khám phụ khoa 1.999.197 lượt phụ nữ, đạt 101,2% kế hoạch Chiến dịch đợt I. Bình quân 1 xã đã khám 228 trường hợp, những tỉnh đạt số khám cao nhất là Nam Định, Cao Bằng, Điện Biên, Quảng Trị... Tại Bắc Giang, tuy triển khai Chiến dịch muộn, nhưng đã thực hiện những mô hình tuyên truyền vận động khám sức khoẻ cho cả vợ và chồng tại xã Vô Tranh (Thái Nguyên), huyện Lục Nam (Bắc Giang); kết quả Chiến dịch đợt I đã khám được 110 cặp vợ chồng trong chương trình phối hợp với hội LHPN tỉnh.
Số phụ nữ phát hiện mắc bệnh phụ khoa 1.126.359 trường hợp, đạt 100.4% kế hoạch Chiến dịch đợt I. Tỷ lệ mắc bệnh so với phụ nữ được khám là 56,3% là khá thấp so với các đợt chiến dịch trước. Chỉ số này cần xem xét và phân tích thêm.
Số phụ nữ được điều trị là 1.094.391 trường hợp, đạt 98,6% kế hoạch đợt I và chiếm 97,1% tổng số phát hiện mắc bệnh. Những tỉnh có số phụ nữ được điều trị cao nhất là: Nam Định, Cao Bằng, Cần Thơ, Bình Định...
Tư tưởng chỉ đạo của Uỷ ban DS,GĐ&TE Trung ương là triển khai Chiến dịch ngày càng mạnh hơn, tập trung hơn và kết quả cao hơn nhằm hướng tới mục tiêu đạt mức sinh thay thế. Chiến dịch đợt I năm 2005 đã đạt được kết quả khá toàn diện, thể hiện trên các nội dung sau đây:
Qua báo cáo của các địa phương, do kết quả triển khai Chiến dịch đến vùng khó khăn và đợt Quý IV-2004, số người mang thai đầu năm 2005 giảm khá, tiếp theo Chiến dịch đợt I-2005 với kết quả này sẽ góp phần tích cực hạn chế số sinh trong năm 2005. Đặc biệt đã tạo khí thế mới, quyết tâm cao đối với việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGĐ đến tận người dân.
Chiến dịch đợt I năm 2005 được các cấp uỷ đảng, chính quyền quan tâm chỉ đạo, huy động sự tham gia của các ngành, đoàn thể và sự hưởng ứng tích cực của nhân dân. Kết quả Chiến dịch đợt I đã góp phần khẳng định quyết tâm đưa Chiến dịch trở thành giải pháp trọng điểm của Chương trình mục tiêu quốc gia DS-KHHGĐ giai đoạn 2006-2010. Vấn đề về tổ chức, điều hành Chiến dịch được Uỷ ban DS,GĐ&TE các cấp quan tâm. Nhiều tỉnh đã thực hiện tốt chế độ báo cáo định kỳ và báo cáo nhanh Chiến dịch như theo yêu cầu của Trung ương./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 4 (tháng 7+8)/2005
Bài liên quan
- Thông điệp về “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
- Chuyện tặng sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho Thư viện Karl Marx
- Tấm gương bình dị trong một nhân cách lớn
- Người chụp cả vạn bức ảnh đẹp về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
- Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
Xem nhiều
- 1 Mạch Nguồn số 56: Dấu ấn về mùa thu lịch sử
- 2 Thông điệp về “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
- 3 10 thành tựu nổi bật của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong 10 năm (2014 – 2024)
- 4 Phản ứng của Trung Quốc đối với chính sách hành động hướng đông của Ấn Độ
- 5 Chuẩn cơ sở giáo dục đại học của Học viện Báo chí và Tuyên truyền: Đánh giá và giải pháp, kiến nghị
- 6 Quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới qua báo điện tử VietnamPlus
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Vai trò của người làm báo trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của báo chí ở nước ta hiện nay
Báo chí nói chung là một trong những kênh chính tạo dư luận xã hội. Báo chí cách mạng Việt Nam càng cần trách nhiệm xã hội cao, vì báo chí là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội, tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước và thế giới theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí, phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc, cộng đồng xã hội. Chính vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, vai trò của người làm báo trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của báo chí là cực kỳ quan trọng, bởi họ có trách nhiệm phản ánh một cách chính xác, đa chiều cạnh và đa dạng về thực tế xã hội,... mang lại thông tin có giá trị, kịp thời cho độc giả.
Thông điệp về “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
Thông điệp về “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
Xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 40 của thế kỷ 20, tranh cổ động gắn liền với lịch sử cách mạng Việt Nam và trở thành một phần quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân Việt Nam. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, tranh cổ động trở thành thứ vũ khí tinh thần mạnh mẽ trong hành trình giành độc lập dân tộc. Tuy nhiên, tranh cổ động không chỉ mang trong mình sứ mệnh tuyên truyền vận động, cổ vũ, tinh thần chiến đấu, thúc giục mọi người tham gia chiến đấu, mà còn mang trong đó những giá trị thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật cùng những thông điệp về khát vọng hoà bình. Bài viết này tập trung tìm hiểu về thông điệp “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (từ năm 1954 - 1975).
Chuyện tặng sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho Thư viện Karl Marx
Chuyện tặng sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho Thư viện Karl Marx
Đầu năm 2022, Hội đồng Lý luận Trung ương phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật cho ra mắt công chúng cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Là cán bộ trường Đảng, chúng tôi may mắn sớm được nhận cuốn sách để làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị, báo chí - truyền thông. Đặc biệt, chúng tôi đã mang cuốn sách đó làm quà tặng Thư viện Karl Marx ở thủ đô London, Vương quốc Anh.
Tấm gương bình dị trong một nhân cách lớn
Tấm gương bình dị trong một nhân cách lớn
Khi Bộ Chính trị thông báo về tình hình sức khỏe của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Nhân dân cả nước và bè bạn quốc tế lo lắng, cầu mong sức khỏe của Tổng Bí thư sẽ hồi phục. Nhưng phép màu nhiệm đã không đến... 13 giờ 38 phút ngày 19 tháng 7 năm 2024, trái tim người con ưu tú của đất nước, Nhân dân Việt Nam đã ngừng đập…
Người chụp cả vạn bức ảnh đẹp về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Người chụp cả vạn bức ảnh đẹp về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Tôi biết nhà báo Lê Trí Dũng từ năm 1992. Khi đó, anh đang là sinh viên lớp đại học báo chí Khóa 10 (1992-1995), Khoa Báo chí, trường Đại học Tuyên giáo (nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền). Lúc này, các lớp đại học báo chí có hai đối tượng học chung, đó là cán bộ đang làm việc ở các cơ quan báo chí và học sinh mới tốt nghiệp trung học phổ thông.
Bình luận