Học tập cách học và dạy lý luận của Hồ Chí Minh
Điều đáng nói là những bài học đó hết sức tự nhiên và gần gũi, không phải dạy, không phải lên gân, không phải lớn tiếng mà hiệu quả thì vô cùng to lớn.
Trước hết là với việc học, có thể thấy rằng, trong cuộc đời làm việc không ngừng của mình, Hồ Chí Minh đã tiếp xúc, học tập, nghiên cứu rất nhiều hệ thống lý luận, nhưng Người chỉ nắm bắt cái tinh túy nhất của mỗi hệ thống lý luận, chuyển hóa cái tinh nhất, cái thần thái, “tinh thần xử trí” mọi việc của mỗi lý luận đó thành cái của mình, hay nói theo ngôn ngữ triết học là biến những lý luận đó từ chỗ tồn tại “tự nó” trở thành tồn tại “cho ta”.
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng, Hồ Chí Minh không lạ lẫm với Nho gia, Đạo gia…; sống trong cộng đồng người Việt, Người cũng trưởng thành trong môi trường đậm chất Phật giáo của dân tộc. Hồ Chí Minh đã kế thừa những gì ở các học thuyết đó? Ở Nho gia, Người tiếp thu tinh thần nhân văn, bình đẳng, nhân bản và loại bỏ tính chất duy tâm, thiên mệnh; đồng thời, rút ra từ đó cái Nhân, Nghĩa, Trung, Hiếu chứ không lệ thuộc vào tam cương, chính danh để rồi dẫn đến cứng nhắc, khuôn mẫu trong đời sống, an phận thủ thường trong thái độ chính trị như phần lớn các kẻ sĩ thuở đó. Bản thân các phạm trù đó cũng được Hồ Chí Minh đề cập với những nội dung mới, phù hợp với hoàn cảnh mới, thể hiện một thế giới quan mới: Trung là trung với nước, hiếu là hiếu với dân, nhân là tất cả vì con người và cho con người.
Triết thuyết Đạo gia với sự thâm thúy của nó cũng khiến nhiều trí thức của xã hội Việt Nam, Trung Quốc vận dụng, dẫn đến xa đời, lánh đời, nhưng Bác thì không. Cái mà Bác học tập ở Đạo gia lại là một triết lý hòa mình vào thiên nhiên, ung dung tự tại. Với triết lý đó, cuộc sống hạnh phúc - theo quan niệm của Hồ Chí Minh, chỉ đơn giản là một ngôi nhà gỗ nho nhỏ, ngày ngày làm bạn với trẻ mục đồng… Và có lẽ, chính do ảnh hưởng từ triết lý “vô vi nhi trị” từ Đạo gia mà Hồ Chí Minh đã “trị” nước, dạy và cảm hóa người khác bằng sự cao cả, trong sạch, nhân ái của chính bản thân mình. Phải chăng ở đây cũng phảng phất chủ trương “đức trị” của đạo Nho: Dùng đức để cảm hóa người khác… giống như sao Bắc Đẩu ở yên một chỗ mà các vì sao khác phải tự khắc chầu về?
Với Phật giáo, điều Người tiếp thu không phải là thái độ yếm thế, bi quan, coi “đời là bể khổ”, mà là đức tính từ bi hỉ xả, cứu khổ cứu nạn, vận động đồng bào hăng hái, sẵn lòng “nhường cơm sẻ áo” giúp nhau vượt qua sự đói nghèo do xã hội phong kiến để lại.
Còn với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra rằng, đây là lý luận được hình thành ở điều kiện xã hội châu Âu, mà châu Âu không phải là toàn thế giới, vậy thì không thể bê nguyên xi, lắp ghép nó một cách gượng gạo vào thực tiễn Việt Nam, mà phải nắm lấy cái tinh thần khoa học và cách mạng của nó để vận dụng cho phù hợp với điều kiện đặc thù Việt Nam. Như chúng ta đã biết, nguyên tắc lịch sử - cụ thể, nguyên tắc được xem là “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh đã vận dụng nguyên tắc này một cách vô cùng uyển chuyển, thể hiện ở sự phân tích sâu sắc và chủ động nắm bắt, tận dụng những điều kiện khách quan (thời), điều kiện chủ quan (thế, lực) trong từng giai đoạn cách mạng, tạo điều kiện cho sự chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng nhằm đạt tới thắng lợi cuối cùng; ở phương pháp phân tích cụ thể, khách quan, khoa học các mâu thuẫn để có biện pháp giải quyết phù hợp, hiệu quả; ở sự linh hoạt, mềm dẻo (ứng vạn biến) trong sách lược, biện pháp cụ thể trong quá trình thực hiện nhất quán, kiên định lập trường, nguyên tắc (dĩ bất biến)… Khả năng biến những lý luận từ “tự nó” thành “cho ta” của Hồ Chí Minh thật là kỳ diệu; nhờ đó, nhân dân ta được tự do, đất nước ta giành được độc lập sau bao nhiêu năm bị ngoại bang giầy xéo.
Còn với tư cách người dạy, dù khiêm tốn nhất, cũng có thể nói rằng Hồ Chí Minh của chúng ta là nhà giáo dục tài năng. Với những người dạy lý luận, có lẽ điều cần học và nên học nhất ở Người là khả năng thực tiễn hóa lý luận, đưa lý luận vào cuộc sống. Những vấn đề lý luận trừu tượng, cao siêu, qua nhãn quan của Hồ Chí Minh, được biến thành những ví dụ, những câu chuyện, những cách diễn đạt mà nghe xong, người học thấu hiểu và làm chủ ngay được những nguyên lý lý luận gốc gác của nó.
Chẳng hạn, Hồ Chí Minh giải thích về chủ trương trường kỳ chống Pháp của ta: Giặc Pháp là “vỏ quýt dày”, ta phải có thời gian để mà mài “móng tay nhọn”. Nói về vấn đề vì sao chúng ta phải làm cách mạng, chủ nghĩa xã hội là như thế nào, Bác định nghĩa thật đơn giản, rõ ràng: “Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân sung sướng, ấm no”(1). Hay khi khẳng định tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ độc lập của Tổ quốc, Bác nói với các chiến sĩ bộ đội Việt Nam: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” - thật là đơn giản và dễ hiểu. Đặc biệt, những cách giải thích, lời giải thích như thế này đâu phải sự giáo huấn, lên lớp của lãnh tụ với quần chúng, nó là lời dạy bảo thân thương của người lớn, người cha ông trong gia đình với con cháu của mình. Những lời dạy đó thấm vào trái tim của mỗi cán bộ, chiến sĩ, của mỗi con người Việt Nam, và hiệu quả của nó cao hơn bất cứ một giờ học, buổi học nào.
Cách dạy và cách học lý luận của Hồ Chí Minh, những tư tưởng mà Người đã tổng kết, những việc mà Người đã làm, những phương pháp mà Người đã thực hiện… với những giảng viên lý luận luôn có giá trị định hướng và gợi mở quý giá. Cái chung của mỗi giảng viên lý luận là phải truyền đạt những tri thức có tính gián tiếp, trừu tượng hóa, khái quát hóa cao. Hơn nữa, những tri thức lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều là sự kết tinh những giá trị tinh thần của loài người ở các lĩnh vực cụ thể. Do đó, việc phải thực tiễn hóa các tri thức lý luận đó, phải “đưa chính trị vào giữa dân gian” như Hồ Chí Minh đã làm là đòi hỏi thiết yếu của việc giảng dạy lý luận hiện nay.
Thực tiễn hóa lý luận là cả một nghệ thuật. Việc thực hiện đến mức độ nào, phụ thuộc chủ yếu vào trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm, vốn kinh nghiệm thực tiễn của người dạy. Thực tiễn hóa lý luận liên quan chặt chẽ tới một số yếu tố sau đây:
Thứ nhất, đòi hỏi đầu tiên là giảng viên phải làm chủ được những nội dung, kiến thức mình giảng dạy. Làm chủ kiến thức được hiểu là giảng viên phải nắm được cái tinh thần, bản chất, thần thái của lý luận, phải biến được những kiến thức lý luận thành một phần vốn có trong trí tuệ, hiểu biết của mình, từ đó, có thể hoàn toàn tự tin trong truyền đạt, giải thích, cắt nghĩa cho người học; có thể gắn được lý luận vào bất cứ một tình huống cụ thể nào. Do đó, giảng viên phải không ngừng làm giàu thêm tri thức của mình về mọi mặt, trước hết là kiến thức chuyên môn.
Thứ hai, giảng viên phải giúp người học tự phát hiện ra tri thức. Mọi nguyên lý lý luận đều xuất phát từ chính thực tế, hình thành trên cơ sở “trực quan sinh động”; do đó, giảng viên tránh áp đặt, ngược lại, nên hướng dẫn người học khái quát thực tiễn, tự rút ra tri thức để hiểu, nhớ lâu và có khả năng áp dụng những tri thức đó trong các tình huống và điều kiện có thể.
Thứ ba, giảng viên phải làm cho người học hiểu lý luận chứ không phải thuộc lý luận. Bởi chỉ khi hiểu, người học mới cảm nhận được tính thực tiễn của các vấn đề lý luận, biết cách vận dụng tri thức lý luận để dẫn dắt, chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Chỉ có như vậy, những vấn đề lý luận mới không xa rời; ngược lại, còn trở thành những vấn đề lý thú, thiết thực đối với người học.
Thứ tư, giảng viên phải thường xuyên trăn trở, ngẫm nghĩ, tìm cách đặt vấn đề, cách gợi mở, dẫn dắt để thực hiện hợp lý nhất nội dung giảng dạy. Trong điều kiện thông tin cởi mở của xã hội hiện nay, giảng dạy lý luận tuyệt đối tránh áp đặt. Người giảng phải bằng kiến thức phong phú, bằng sự đúng mực của người thầy và sự công bằng trong tranh luận để giúp người học tiếp cận các vấn đề lý luận một cách khoa học nhất, đúng đắn nhất.
Thứ năm, thực tế cho thấy, nếu giảng viên gợi mở tốt, vượt qua những e dè lúc đầu, người học (kể cả sinh viên chính quy, tại chức, học viên cao học…) sẽ đưa ra rất nhiều câu hỏi, ý kiến, thắc mắc…, đòi hỏi giảng viên cần có phông kiến thức rộng để trả lời, trao đổi, bình luận ở một mức độ tương đối các vấn đề đó. Vì thế, mỗi giảng viên cũng phải luôn làm sâu sắc và mới thêm kiến thức hàng ngày, hàng giờ…

Nhìn chung, mỗi giảng viên lý luận cần coi “thực tiễn hóa lý luận” là một nguyên tắc tối cao trong giảng dạy. Từ cái “dĩ bất biến” đó, chúng ta có thể “ứng vạn biến” với vô vàn những cách thức khác nhau tùy điều kiện, đối tượng, bài giảng, môn học cụ thể, nhằm thực hiện với chất lượng cao nhất nhiệm vụ chuyên môn cao cả của mình./.
_________________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số 5.2013.
(1) Hồ Chí Minh Toàn tập (1996), T.10, Nxb. CTQG, Hà Nội, tr.31.
TS. Bùi Thị Thanh Hương
Bài liên quan
- Lực lượng Công an nhân dân học tập và làm theo Sáu điều Bác Hồ dạy
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, trí tuệ, “là đạo đức, là văn minh” và việc vận dụng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong kỷ nguyên mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vận dụng trong nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong Di chúc vào việc xây dựng tổ chức đảng hiện nay
- Nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo hiện nay
Xem nhiều
-
1
[Video] Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Động lực mới cho phát triển kinh tế”
-
2
Quản trị nhà nước tốt gắn liền với thể chế dân chủ ổn định và phát triển
-
3
Ứng dụng AI trong sáng tạo tác phẩm báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay
-
4
Phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - mục tiêu, quyết tâm của toàn Đảng và ý nguyện, khát vọng của người dân Việt Nam
-
5
Phản bác luận điệu xuyên tạc chiến thắng vĩ đại của Việt Nam - Bài 2: Các cứ liệu lịch sử khẳng định bản chất cuộc kháng chiến (Tiếp theo và hết)
-
6
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vận dụng trong nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Quản trị nhà nước tốt gắn liền với thể chế dân chủ ổn định và phát triển
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số, các quốc gia ngày càng nhận thức rõ rằng hiệu quả quản trị nhà nước không chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà còn là kết quả của một thể chế chính trị phù hợp. Trong đó, thể chế dân chủ với các nguyên tắc minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham gia của người dân được xem là nền tảng quan trọng để xây dựng một nhà nước hiện đại, pháp quyền và phát triển bền vững.
Lực lượng Công an nhân dân học tập và làm theo Sáu điều Bác Hồ dạy
Lực lượng Công an nhân dân học tập và làm theo Sáu điều Bác Hồ dạy
Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân không chỉ là lời căn dặn mà còn là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, rèn luyện và cống hiến của lực lượng công an trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở phân tích sáu điều Bác Hồ dạy công an nhân dân, bài viết đề xuất các giải pháp giúp đẩy mạnh việc học tập và làm theo sáu điều Bác Hồ dạy của lực lượng Công an nhân dân, góp phần xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, sẵn sàng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự trong tình hình mới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, trí tuệ, “là đạo đức, là văn minh” và việc vận dụng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong kỷ nguyên mới
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, trí tuệ, “là đạo đức, là văn minh” và việc vận dụng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong kỷ nguyên mới
Trong bài nói tại Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, tối 5-1-1960, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”(1). Tám chữ vàng đã kết tinh phẩm giá, cốt cách, bản lĩnh, trí tuệ, tầm vóc của một đảng cách mạng chân chính và mang giá trị thời đại sâu sắc, tiếp tục soi sáng cho công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, để trở thành “một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, chân chính, triệt để cách mạng”(2), đủ sức gánh vác sứ mệnh đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới phồn vinh, hạnh phúc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vận dụng trong nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vận dụng trong nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay
Đạo đức cách mạng là một trong những phẩm chất cao quý của người cách mạng, là bài học có giá trị quý báu, đúc kết để đội ngũ cán bộ, đảng viên từng bước hoàn thiện về đạo đức, nhân cách. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là kim chỉ nam, cơ sở nền tảng để đội ngũ cán bộ, đảng viên vận dụng rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng. Bài viết làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, phản ánh một số hạn chế, bất cập về đạo đức cách mạng của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên thời gian tới.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong Di chúc vào việc xây dựng tổ chức đảng hiện nay
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong Di chúc vào việc xây dựng tổ chức đảng hiện nay
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản vô giá, thể hiện tư tưởng, đạo đức và tầm nhìn của Người. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Đảng đối với sự nghiệp cách mạnh và phát triển đất nước. Những căn dặn của Người về sự đoàn kết, đạo đức cách mạng và năng lực lãnh đạo của Đảng luôn mang giá trị thời sự. Trong bối cảnh thế giới biến động phức tạp, ý nghĩa của Di chúc là kim chỉ nam cho công tác xây dựng Đảng.
Bình luận