Kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII
Kiểm soát quyền lực là một nguyên tắc hiến định, một giá trị cốt lõi trong tổ chức, hoạt động quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 đã đặt nền móng hiến định cho việc xây dựng và hoàn thiện các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Vai trò của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vừa bao gồm cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong, vừa bao gồm cơ chế kiểm soát bên ngoài và cơ chế kiểm soát quyền lực độc lập. Tất cả tạo thành một tổng thể kiểm soát quyền lực có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước.
Trước hết, kiểm soát quyền lực nhà nước là phương tiện để nhà nước tự mình giữ vững và phát huy bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự có của nhà nước mà là quyền lực của nhân dân, được nhân dân giao quyền, nhân dân ủy quyền thông qua quyền lập hiến của mình. Vì thế, hơn ai hết, nhà nước phải tự kiểm soát được mình, để sau khi nhân dân giao quyền, nhân dân ủy quyền, quyền lực nhà nước được vận hành theo đúng quyền lực được nhân dân giao cho; phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Theo đó, việc xây dựng và hoàn thiện các cơ chế kiểm soát đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước là nhằm xây dựng công cụ, phương tiện pháp lý cơ bản để hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước của những người cầm quyền dẫn đến xu hướng quyền lực nhà nước bị tha hóa, lộng quyền, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Quyền lực nhà nước rất cần thiết đối với xã hội, nhưng cũng chính con người phải đối mặt với những nguy hại do quyền lực nhà nước bị tha hóa. Khi đó, quyền lực nhà nước lại trở thành công cụ thỏa mãn lợi ích của những người nắm giữ quyền lực và đối lập với lợi ích của nhân dân. Vậy làm thế nào để con người thoát ra khỏi mâu thuẫn vừa cần trật tự và phát triển ổn định do vai trò của quyền lực nhà nước, vừa chống lại sự lạm quyền của nhà nước? Kinh nghiệm của nhân loại chỉ ra rằng phải xây dựng một nhà nước dân chủ và pháp quyền, tức là phải xây dựng một chính quyền trước hết kiểm soát được chính bản thân mình và tiếp theo kiểm soát được xã hội.
Hai là, kiểm soát quyền lực trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là phương tiện bảo đảm cho quyền lực Nhà nước được thực thi hiệu lực và hiệu quả. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, xã hội càng trở nên hiện đại, tổ chức quyền lực nhà nước lại càng cần được phân công, phối hợp và kiểm soát chặt chẽ. Đây là một yêu cầu khách quan do sự phân công lao động xã hội, do tính chuyên môn hóa của hoạt động quyền lực nhà nước. Đồng thời, việc thực thi quyền lực cũng có những hạn chế, do chỗ “Loài người không phải là thánh thần không bao giờ sai lầm; chân lý của họ phần nhiều chỉ là các chân-lý-một-nửa”(1).
Hơn nữa, con người còn bị điều khiển, bị chi phối bởi nhiều tham vọng, trong đó có tham vọng về quyền lực vừa là mục tiêu, vừa là công cụ để đạt được tham vọng khác. Do đó, không thể khẳng định người được ủy quyền luôn luôn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Vì vậy, trong tổ chức quyền lực nhà nước cần có cơ chế tự kiểm soát mình và kiểm soát lẫn nhau một cách chặt chẽ những con người làm việc trong bộ máy quyền lực nhà nước để có thể kịp thời phát hiện và xử lý được ngay khi những người này không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Đồng thời, đối với hệ thống chính trị do một Đảng lãnh đạo cầm quyền như nước ta, cơ chế kiểm soát quyền lực vừa bao gồm các chủ thể cả bên trong, vừa bao gồm chủ thể bên ngoài bộ máy nhà nước lại càng có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi đây là cơ chế bảo đảm cho sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng vững mạnh; bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Ba là, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nước ta, việc xây dựng và hoàn thiện đồng thời cả ba cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nói trên đều có vai trò quan trọng và có tác động qua lại. Trước hết, cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong là nhân tố bảo đảm cho nhà nước tự kiểm soát được chính mình. Đồng thời, các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên ngoài và kiểm soát độc lập là các cơ chế đặc biệt quan trọng để bảo đảm cho quyền lực nhà nước thực sự là quyền lực của nhân dân, bổ sung, hỗ trợ cho cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong phát huy hiệu lực và hiệu quả. Cơ chế tự mình kiểm soát quyền lực của mình, tự mình phát hiện, khắc phục hạn chế trong thực thi quyền lực nhà nước là rất cần thiết, nhưng chưa đủ, nhất là trong hệ thống chính trị một Đảng cầm quyền như nước ta. Trong nhiều trường hợp, kiểm tra của các cấp ủy, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và giám sát của nhân dân lại trở thành cơ chế kiểm soát quyền lực có hiệu lực và hiệu quả, tác động trở lại đối với cơ chế kiểm soát bên trong.
Thực trạng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Từ sau Cương lĩnh năm 2011 và Hiến pháp năm 2013 đến nay, cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nói chung, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong nói riêng có nhiều chuyển biến tích cực cả trong nhận thức lẫn trong thực tiễn vận hành. Điều đó thể hiện trên một số mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, việc thừa nhận trong văn kiện của Đảng và Nhà nước rằng Nhà nước ta đang xây dựng là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là bước đột phá về nhận thức để từng bước chuyển từ tổ chức quyền lực nhà nước theo mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa, không coi trọng và đề cao việc phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước sang mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa coi trọng và đề cao việc phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Từ sau Cương lĩnh năm 2011 và Hiến pháp năm 2013 các quy định của Đảng trong các Nghị quyết của Đại hội Đảng, Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực đã trở thành các tư tưởng, quan điểm chỉ đạo một cách mạnh mẽ, quyết liệt với nội dung mới và sâu sắc hơn so với trước đây. Các quan điểm về “Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương”(2); xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình và tăng cường công tác kiểm tra thực hiện(3); Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền(4); “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng phí;...”(5); “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”(6) và mới đây, trong Nghị quyết số 27-NQ/TW, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, về “Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” lại tiếp tục nhấn mạnh: kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. Nghiên cứu thành lập các thiết chế mới về kiểm soát quyền lực phòng, chống tham nhũng.
Về thực trạng cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy Nhà nước
Với sự phân công mạch lạc, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp; Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và Tòa án thực hiện quyền tư pháp của Hiến pháp năm 2013; cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã hình thành và phát huy tác dụng trong thực tiễn. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội tăng cường các hoạt động giám sát tối cao và giám sát đối với Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Kiểm soát quyền lực nhà nước bằng các phương thức chất vấn, lấy phiếu tín nhiệm, giám sát chuyên đề của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong những năm qua có nhiều đổi mới, hiệu lực và hiệu quả ngày càng được nâng cao. Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực thi quyền lực nhà nước cũng được tăng cường góp phần vào việc tự kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện quyền hành pháp. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong nội bộ mỗi cơ quan được đề cao, công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan cấp trên được tăng cường.
Tuy đạt được một số kết quả nói trên, nhưng kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước còn một số hạn chế:
Một là, cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mới chỉ chú trọng việc kiểm soát của lập pháp (Quốc hội) đối với hành pháp (Chính phủ) và tư pháp (Tòa án). Còn Chính phủ - cơ quan thực hiện quyền hành pháp - kiểm soát việc thực hiện quyền lập pháp, tư pháp cũng như cơ quan thực hiện quyền tư pháp kiểm soát việc thực hiện quyền lập pháp và quyền hành pháp chưa được coi trọng. Vì thế, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các quyền chưa hình thành một cách đầy đủ theo đúng quy định của Hiến pháp năm 2013. Hiện nay, chưa hình thành cơ chế kiểm soát của quyền hành pháp đối với cơ quan thực hiện quyền lập pháp và quyền tư pháp, chưa có cơ chế phát huy đầy đủ vai trò của quyền tư pháp trong kiểm soát đối với quyền lập pháp và quyền hành pháp.
Hai là, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong mỗi quyền đã hình thành, nhưng chưa đủ mạnh và đúng nghĩa là một cơ chế kiểm soát độc lập trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Thanh tra, kiểm tra trong các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan tư pháp chủ yếu là công cụ nặng về quản lý nhà nước, phụ thuộc vào thủ trưởng trong việc đưa ra kết luận thanh tra hơn là một công cụ kiểm soát quyền lực nhà nước. Kiểm soát quyền lực của chính quyền cấp trên đối với cấp dưới và giữa các cơ quan trong cùng một cấp chưa được tiến hành thường xuyên và đúng mức.
Ba là, sự phân công và xác định trách nhiệm giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp còn có những quy định chưa hợp lý, chưa cụ thể, chưa rõ, còn tình trạng phân công chưa rành mạch, trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ nên không thực hiện được việc kiểm soát lẫn nhau giữa các quyền(7).
Về thực trạng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên ngoài
Cơ chế kiểm soát quyền lực này đã bước đầu hình thành và vận hành trong thực tiễn. Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 đã cụ thể hóa chức năng hiến định về giám sát và phản biện xã hội, tạo cơ sở pháp lý cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các thành viên của Mặt trận kiểm soát việc thực thi quyền lực của các tổ chức Đảng và các cơ quan nhà nước. Hằng năm, các cấp của Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của Mặt trận đã tiến hành giám sát và phản biện hàng nghìn cuộc(8). Tuy nhiên, nhìn chung cơ chế kiểm soát này vận hành chưa thực chất do nhận thức của cả chủ thể giám sát lẫn đối tượng bị giám sát chưa đầy đủ, cơ sở pháp lý chưa hoàn thiện. Công dân chưa hình thành ý thức và thói quen giám sát việc thực thi quyền lực của các cơ quan nhà nước thông qua các quyền dân chủ trực tiếp của mình, như quyền bầu cử, quyền khiếu nại tố cáo...
Các phương tiện truyền thông đại chúng kết hợp với công luận đã góp phần tích cực vào kiểm soát quyền lực nhất là trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Tuy nhiên, việc tạo lập bầu không khí dân chủ, cung cấp phương pháp, cách thức, kinh nghiệm để hỗ trợ tích cực hơn cho nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chưa được nhiều. Đánh giá tổng thể, Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9/11/2022, Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” chỉ ra rằng: “quyền lực nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện”. Những hạn chế này do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là “quyết tâm chính trị, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy Đảng, chính quyền trong thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra”.
Về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước độc lập do Luật định
Điều 119, Khoản 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Đến nay cơ chế này chưa ra đời. Chắc chắn, trong thời gian tới cơ chế này sẽ được tiếp tục nghiên cứu để hình thành một mô hình bảo hiến độc lập phù hợp với tổ chức quyền lực ở nước ta do một đạo luật quy định.
Quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Về quan điểm
Kiểm soát quyền lực là vấn đề chính trị - pháp lý sâu sắc, liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của từng cơ quan, từng cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước. Do đó, để xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực đáp ứng yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị, đòi hỏi có sự thống nhất và quyết tâm chính trị cao của cả hệ thống chính trị, trong đó sự lãnh đạo và chỉ đạo sát sao và quyết liệt của Đảng giữ vai trò đặc biệt quan trọng, mang tính quyết định.
Để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nâng cao nhận thức về bản chất của nhà nước ta; quyền lực chính trị của Đảng lãnh đạo, cầm quyền cũng như quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ quyền lực của nhân dân, được tổ chức và hoạt động trong giới hạn, bị ràng buộc và bị kiểm soát theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, phụng sự nhân dân là nguyên tắc tối cao trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước.
Việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực cần được tiến hành một cách tổng thể, đồng bộ, hệ thống trong tổng thể xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, trong việc tiếp tục cải cách, đổi mới về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương nói riêng.
Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề mới, nhạy cảm cần có sự tham khảo các giá trị phổ quát của các nhà nước dân chủ và pháp quyền trên thế giới với sự vận dụng và phát triển thận trọng, phù hợp với hệ thống chính trị và truyền thống văn hóa của nước ta; kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới và phát triển. Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9/11/2022, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đề ra mục tiêu đến năm 2030 là hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, được kiểm soát hiệu quả và xác định trọng tâm là hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Về nhiệm vụ
Một là, nâng cao nhận thức về vai trò và vị trí của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước nói riêng. Đây là vấn đề quan trọng trong phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước, làm cho quyền lực nhà nước mạnh, hiệu lực và hiệu quả, thực sự là quyền lực của nhân dân. Hình thành tư duy thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong thực thi quyền lực nhà nước; coi Hiến pháp và pháp luật là phương tiện để giới hạn và kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước.
Hai là, hoàn thiện cơ chế thực thi quyền lực nhà nước, xác định rõ hơn, đầy đủ hơn vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công mạch lạc, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực bên trong mỗi cơ quan và giữa các cơ quan nhà nước, giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương và giữa các cơ quan trong cùng cấp chính quyền địa phương. Quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành pháp trong kiểm soát cơ quan thực hiện quyền lập pháp và quyền tư pháp, của cơ quan tư pháp trong kiểm soát cơ quan thực hiện quyền lập pháp và quyền hành pháp.
Ba là, kết hợp chặt chẽ, hiệu quả cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước với cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của Đảng đối với nhà nước và cơ chế giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân tạo thành sức mạnh tổng thể kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Bốn là, kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. Nghiên cứu thành lập các thiết chế mới về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; ban hành các quy định về kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Về giải pháp:
Một là, tiếp tục nghiên cứu xây dựng hệ thống lý luận đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó cần làm sâu sắc lý luận và thực tiễn kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta. Nâng cao văn hóa pháp luật, pháp quyền, ý thức thượng tôn Hiến pháp và pháp luật của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong thực thi quyền lực nhà nước bằng việc đổi mới mạnh mẽ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức đảng và đảng viên trong việc học tập, quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, về thượng tôn Hiến pháp, pháp luật và kiểm soát quyền lực nhà nước nói riêng.
Hai là, rà soát các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các thiết chế hiến định để phân công, quyền lực nhà nước phù hợp, khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp hoặc quy định không đúng hay bỏ sót chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Kiểm soát quyền lực nhà nước chỉ có hiệu lực và hiệu quả trên cơ sở phân công quyền lực nhà nước một cách đúng đắn, rõ ràng và minh bạch. Theo đó, cần tiếp tục phân công quyền lực một cách đúng đắn và phù hợp giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Hiện nay, trong một số đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước còn có sự phân công, phân nhiệm không phù hợp. Ví dụ: “Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn bộ máy giúp việc Tòa án nhân dân tối cao” (Khoản 9, Điều 27 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014); “Tòa án nhân dân tối cao quản lý Tòa án nhân dân về tổ chức ” (Khoản 1, Điều 18 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014). Các nhiệm vụ, quyền hạn này cần được phân công cho Chính phủ, cơ quan được Hiến pháp quy định là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp. Có như vậy Chính phủ mới kiểm soát được các hoạt động mang tính hành chính nhà nước trong việc thực hiện quyền tư pháp.
Cần nghiên cứu mở rộng thẩm quyền của Tòa án để quyền tư pháp phát huy đầy đủ vai trò của mình. Ví dụ: mở rộng thẩm quyền cho Tòa án tài phán các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật mà công dân cho rằng cơ quan có thẩm quyền đã áp dụng là trái với Luật của Quốc hội hay Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Có như vậy, quyền tư pháp mới phát huy được vai trò kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp.
Quy định rõ hơn phạm vi, đối tượng, phương pháp, hình thức giám sát tối cao của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn, giải trình, giám sát văn bản quy phạm pháp luật; đổi mới việc lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội nhằm nâng cao hơn nữa hiệu lực và hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của Quốc hội đối với các quyền hành pháp và tư pháp.
Quy định rõ hơn vị trí, vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm của Chính phủ trong công tác xây dựng pháp luật, trong quy trình lập pháp của Quốc hội, bảo đảm Chính phủ vừa phối hợp với Quốc hội, vừa tăng cường kiểm soát hoạt động lập pháp của Quốc hội. Cần bổ sung và sửa đổi các quy định pháp luật hiện hành để Chính phủ có thể kiểm soát được các hoạt động hành chính nhà nước trong tổ chức và hoạt động của quyền lập pháp.
Ba là, cùng với việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật để trong mỗi quyền, mỗi cơ quan đều có cơ chế tự kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước đủ mạnh để tự mình kiểm soát hiệu quả quyền lực nhà nước của mình.
Nghiên cứu hình thành cơ chế tự kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Ví dụ, hình thành cơ chế kiểm soát, đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra Chính phủ, thanh tra các bộ, ngành và thanh tra của các địa phương thực sự là công cụ kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước trong các cơ quan hành chính nhà nước, khắc phục nhận thức một chiều thanh tra là công cụ quản lý nhà nước, phục vụ thủ trưởng quản lý nhà nước.
Bốn là, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền một cách khoa học, hợp lý; nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, sáng tạo của chính quyền địa phương gắn với kiểm tra, giám sát chặt chẽ của cấp trên đối vớicấp dưới.
Xác định rõ cơ chế phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương trên từng ngành, từng lĩnh vực; khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn bảo đảm trách nhiệm rõ ràng, trên cơ sở đó tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra cấp trên đối với cấp dưới.
Kiện toàn cơ chế thanh tra, kiểm tra ở mỗi cấp đủ mạnh để kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước ở cấp mình và cấp dưới.
Năm là, phối hợp chặt chẽ giữa cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước với cơ chế kiểm tra, giám sát của Đảng đối với nhà nước và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân (cơ chế kiểm soát quyền lực bên ngoài). Phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể và cơ quan báo chí trong giám sát và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Xây dựng quy chế, quy trình phối hợp chặt chẽ giữa giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của các cơ quan của Quốc hội với giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội hằng năm.
Phối hợp chặt chẽ giữa Thanh tra Chính phủ, thanh tra các bộ, ngành và chính quyền địa phương với Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ủy ban kiểm tra các cấp trong việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên trong bộ máy Đảng và Nhà nước.
Hình thành cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để không thể tham nhũng, tiêu cực; phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, tiêu cực để không dám tham nhũng, tiêu cực; xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để không cần, không muốn tiêu cực, tham nhũng./.
______________________________________
(1) John Mill (2005), Bàn về tự do, Nxb. Tri thức, Hà Nội, tr. 130 - 131.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr. 203.
(3) Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng.
(4) Nghị quyết Trung ương VII khóa XII.
(5), (6) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, T.1, tr. 195,118.
(7) Xem: Khoản 10, Điều 70, Khoản 4, Điều 74 của Hiến pháp năm 2013 quy định thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội không phù hợp. Hay Khoản 9, Điều 27 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội chưa phù hợp...
(8) Theo: Báo cáo tổng kết của Mặt trận Tổ quốc năm 2021.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 15/10/2023
Bài liên quan
- Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
- Tính nhân văn của Đề cương về văn hóa Việt Nam - động lực xây dựng, phát triển văn hóa đất nước bền vững trong thời đại Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
Cuộc cách mạng 4.0 đang tạo ra sự thay đổi sâu rộng trong ngành truyền hình với sự xuất hiện của truyền hình đa nền tảng. Khác với truyền hình truyền thống, truyền hình đa nền tảng đã và đang định hình lại cách thức tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung thông qua các đặc trưng nổi bật như tính thời sự, khả năng lan truyền thông tin nhanh chóng, tính đa dạng và tương tác cao, quản lý và lưu trữ hiệu quả. Vận hành một mô hình sản xuất truyền hình đa nền tảng cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, trong đó nhấn mạnh đến các nguyên tắc về thông tin chính xác, kết hợp sản xuất nội dung với công nghệ mới, phát triển đa dạng các nền tảng...
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Chiều 31/10, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo sư, Tiến sỹ Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3).
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực không những góp phần đẩy mạnh phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng mà còn góp phần đảm bảo phúc lợi cho người lao động. Vì thế, trong quá trình hội nhập, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đầu tư phát triển nguồn nhân lực – yếu tố then chốt để Việt Nam đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển toàn diện, nhanh và bền vững. Nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của nguồn nhân lực, Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã có những chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và đã đạt được những kết quả tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Song, bên cạnh những thành tựu, vẫn con những hạn chế nhất định, vì vậy, cần xây dựng hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng yếu tố quyết định thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo lợi thế cạnh tranh của tỉnh hiện nay trong thời gian tới.
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đóng góp sâu sắc đối với sự phát triển lý luận của Đảng về quyền con người. Những quan điểm của Tổng Bí thư sẽ tiếp tục là nguồn cảm hứng và định hướng quan trọng cho các hoạt động về quyền con người trong thời kỳ mới.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
Theo thông tin từ Hội đồng chuyên môn bảo vệ sức khỏe cán bộ Trung ương, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sau thời gian lâm bệnh, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao, bệnh nặng, Đồng chí đã từ trần lúc 13 giờ 38 phút, ngày 19-7-2024, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Hưởng thọ 80 tuổi. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân” của Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Bình luận