Kỳ Anh - một vùng đất lịch sử và văn hóa
Kỳ Anh, một huyện ở điểm mút phía nam của tỉnh Hà Tĩnh - tên gọi chính thức cho đến nay, có từ thời nhà Nguyễn (1841).
Lần theo sử sách, đây là vùng cực nam của bộ Cửu Đức (một trong 15 bộ của nước cổ Văn Lang), là vùng biên giới Việt - Chiêm trong cuộc đụng độ giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Những thế kỷ nội chiến thời Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn phân tranh…, Kỳ Anh, Đèo Ngang trở thành cứ điểm trọng yếu về quân sự. Sử sách gọi là “ vùng đệm” giữa hai lực lượng quân sự Đàng trong và Đàng ngoài. Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803) từng ghi lại cảm nghĩ về nơi đây:
“Thăm thẳm trại quân khống chế bờ cõi
Kèn trận thổi tan cả sóng biển
Trống canh khuya lụi cụi khói hoả hiệu…”
Có phải vì thế không, mà trên dải đất có núi non tầng tầng, lớp lớp dàn hàng kéo xuống biển này, mỗi tên sông, tên núi, tên chợ, tên cầu, tên quán… đều gợi đến một vùng đất thường xuyên sôi động vì các cuộc chiến tranh trong lịch sử ?
Theo sách Địa chí huyện Kỳ Anh, có:
- Tên các rú (núi): rú Voi, rú Cờ (hay Kỳ Đầu), rú Yên Mã, rú Hoả Hiệu, rú Đọ, rú Tù Và…
- Tên các đỉnh rú (đỉnh núi): ngọn Voi, ngọn Cờ (hay Kỳ Đầu), ngọn Trống, ngọn Động Cấp, Động Chào…
- Tên các mũi (chỗ đất liền và núi lấn ra biển): mũi Dung, mũi Độc, mũi Đao, mũi Con Voi.
- Tên các vũng (nơi biển ăn sâu vào đất liền): vũng Ná, vũng áng
- Tên các con sông, khe suối, kênh: sông Trí, sông Quyền, kênh Voi, khe Bò, khe Du, khe Di, khe Luỹ, khe Đầu Voi…
- Tên chợ, tên quán: chợ Trạm, chợ Chào, chợ Voi, chợ Điếm, chợ Cầu, quán Voi, quán Hoả Hiệu …
- Tên một số vùng: vùng Trọ Nác (đọc chệch - nghĩa là sọ nát), vùng Nghĩa Trũng (đọc chệch nghiã là nghĩa địa), vùng Cồn Tập (tương truyền là nơi luyện tập quân nhà Trịnh). Vùng này còn là câu ca mà người đời cho rằng nói về một tướng nào đó trong thời chiến tranh Trịnh - Nguyễn: “Khi đi tám vạn quân đầy, Khi về dạc dài còn lại năm mươi”…
Kỳ Anh có rất nhiều địa danh tên là Voi (hay Tuần Tượng). Bởi xưa kia đây là trại nuôi, huấn luyện voi chiến, voi tải của nhà vua từ các thế kỷ XVI đến XIX (nay thuộc hai xã Kỳ Bắc và Kỳ Phong). Trong thư tịch và sử sách của các thời Lê, Tây Sơn, Nguyễn đều có ghi lại việc tổ chức chăn nuôi, luyện tập voi, để cung cấp voi và các tượng binh cho triều đình. Đây cũng là nơi tiếp nhận voi cống từ nước Vạn Tượng, huấn luyện voi chiến, huấn luyện voi trong các nghi lễ của nhà nước phong kiến. Đến thế kỷ XIX, trại voi mới bị bãi bỏ.
Vùng đất xa xôi tận cùng này không chỉ thường xuyên sôi động vì các cuộc chiến tranh trong lịch sử, mà cho đến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đây vẫn là chiến địa nóng bỏng.
Đường quốc lộ 1A chạy qua đầu huyện (xã Kỳ Bắc) đến cuối huyện (xã Kỳ Nam), làm cho vùng đất giáp Đèo Ngang này thành điểm nút giao thông quan trọng. Là hậu cứ trực tiếp của chiến trường, nên Kỳ Anh đã trở thành cái túi hứng chịu bom đạn của máy bay, của trọng pháo địch từ ngoài biển câu vào, chưa kể đến những trận mưa bom vô cớ mà những giặc lái về qua đây thường trút hết cho nhẹ trước khi tẩu thoát ra biển. Chỉ tính riêng xã Kỳ Trinh nhỏ bé (chỉ có 3 thôn), nhưng có tới 12 chiếc cầu với tổng chiều dài 50m, trên đoạn đường dài 6km của quốc lộ 1A đi qua. Trong những năm chiến tranh, không quân, hải quân Mỹ đã đánh vào đoạn đường này 747 lần với 6.500 quả bom, làm sập 4 cầu lớn và đánh vào vùng dân cư 2.522 lần với 10.640 quả bom; 1.750 quả rốc két; 650 quả bom bi mẹ (chứa 478.500 quả bom bi con); 127 quả đại bác, chưa kể các loại pháo khác. Trong xã có 180 ngôi nhà bị cháy, 74 người chết và bị thương, 48 con trâu bò bị giết,98 tấn lương thực bị huỷ hoại… Có những trận, bom Mỹ dội xuống hai xã Kỳ Bắc và Kỳ Phong, làm chết hàng trăm người trong một ngày.
Cũng như nhân dân cả nước, sự khốc liệt của chiến tranh không làm cho người dân ở đây nao núng. Bám đất, bám làng, ngày đêm bà con vững tay cày, chắc tay súng, đảm bảo cho đường thông suốt. Có nhiều gia đình còn dỡ cả ván nằm, vách nhà bằng gỗ ra lót đường cho xe đi. Góp phần cho ngày toàn thắng, Kỳ Anh đã bắn rơi 60 máy bay, bắn chìm 9 tàu chiến, tàu biệt kích của địch. Nhiều đơn vị cá nhân được phong danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, với 3.800 Huân chương chiến công từ Hạng Nhất đến Hạng Ba. Có 36 bà mẹ được phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Năm 1976, lực lượng vũ trang nhân dân huyện Kỳ Anh được Quốc hội và Chính phủ tuyên dương “Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Có một điều thật kỳ lạ, vùng đất đầy dấu vết chiến địa xưa nay cũng là vùng đất danh thắng nhất nhì Nghệ Tĩnh. Ai vượt qua Hoành Sơn, Đèo Ngang mà không dừng lại sửng sốt, tự hào trước cảnh thiên nhiên bao la, kỳ vĩ “cát trắng mênh mông, mây trắng sôi. Ngàn xanh thăm thẳm, bể xanh trôi” (thơ Phạm Quý Thích, 1760 - 1825). Sơn thuỷ hữu tình, mỗi cảnh một kỳ quan, đẹp như mơ, xưa nay từng làm say đắm bao thi nhân mặc khách khi “bước tới Đèo Ngang”. Dừng chân ngắm cảnh, cụ Bùi Huy Bích ngồi bên khe Mộc Miên đã sảng khoái thốt lên “Khói chiều lơ lửng bên thôn vắng. Hoa sớm tưng bừng mạn suối mơ”… Cụ Cao Bá Quát khi xuống tắm dưới khe Đá Bàn, cao hứng ngâm “Sớm đứng ngọn Hoành Sơn. Chiều tắm khe Bàn Thạch. Nhặt đá cầm trong tay. Non sông chưa đầy vốc”…
Như trong câu ca dao vùng này “Chữ rằng nhân kiệt địa linh. Có Hoành Sơn, Bàn Độ mới dĩnh sinh nhân tài”, mảnh đất địa linh nhân kiệt đã sinh ra những con người là tinh hoa của một vùng, của đất nước. Từ thế kỷ XV - XVI, có hai anh em họ Lê cùng đỗ đại khoa. Lê Quảng Chí sống vào thời Lê Thánh Tôn. Vua rất tôn quý ông, luôn gọi bằng “tiên sinh”, chứ không gọi bằng tên bao giờ. Ông chính là người đã phụng chỉ vua, soạn bài văn bia mộ Quang Thục Hoàng Thái Hậu (mẹ vua, tên là Ngô Thị Ngọc Dao). Ngày nay dưới chân núi Hoành Sơn còn có bia mộ và đền thờ hai ông (Đền Bảng quận công).
Người dân Kỳ Anh vốn rất tự hào “đứa nằm ngả (ngửa) trong nôi cũng biết đàng (đường) hát dặm”. Trong rất nhiều làng xóm (Nhân Canh, Nhân Lý, Hiệu Thuận, Hưng Nhân…) có một kho tàng thần thoại truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, vè, ca dao… mang đậm màu sắc địa phương. Đặc biệt, có những nghệ nhân dân gian tài hát ví, hát dặm như Cô Nhẫn (làng Đan Du) đến nay tiếng vẫn lưu truyền.
Đây cũng là mảnh đất có nhiều làng nghề truyền thống lâu đời mà niềm tự hào đã thành câu hát… “Đất Đan Du làm nón. Đất Cổ Đạm vắt nồi. Đất Trung Hạ đốt vôi. Đứa nằm ngã trong nôi. Cũng có tiền gợ (kiếm) gạo”.
Dù vậy Kỳ Anh vẫn là vùng đất nghèo.
Hôm nay trên mảnh đất biên viễn xưa, một bức tranh mới của cuộc sống làm náo nức lòng người. Tương lai của thị xã Hoành Sơn, khu kinh tế Bắc Đèo Ngang đang được khẳng định bằng những công trình: khu kinh tế Vũng áng, Dự án đường bộ qua Đèo đang được hoàn thiện, Cảng mới xây, đường 1A thông với Lào mới mở…và một khu du lịch sinh thái đầy tiềm năng Đèo Con - Kyyoto vừa mới khai trương. Thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, chắc chắn Kỳ Anh sẽ bước sang một giai đoạn mới trong sự phát triển kinh tế - xã hội./.
Ai đó nói rằng, nơi đây cảnh đẹp, người thuần, nhưng thiên nhiên và lịch sử không mấy ưu ái. Nhưng rồi chính dòng xoáy của thiên tai, địch hoạ đã tạo dựng nên một vùng đất lịch sử văn hoá, tạo dựng nên những con người biết sống và sáng tạo, để hôm nay họ vững vàng đi lên trong sự nghiệp đổi mới của quê hương, đất nước.
____________________________
Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 1 (tháng 1+2)/2005
TS Nguyễn Thị Hương
Bài liên quan
- Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
- Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
- Tăng cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trong bối cảnh hiện nay
- Quyền tiếp cận thông tin cho đồng bào dân tộc thiểu số
- Khu vực duyên hải miền Trung thực hiện chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển và thích ứng với biến đổi khí hậu
Xem nhiều
- 1 Thông báo tuyển sinh Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, Quan hệ công chúng và Thương hiệu năm 2024
- 2 Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
- 3 Podcast - biểu tượng sức mạnh của phát thanh hiện đại
- 4 Nâng cao hiệu quả công tác truyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở Việt Nam hiện nay
- 5 Vấn đề thu phí trên báo mạng điện tử
- 6 Mô hình Hội đồng trường đại học trên thế giới và những khó khăn khi áp dụng tại Việt Nam
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Mạng xã hội và báo chí: cuộc chia ly đã được báo trước
Chúng ta đang chứng kiến tiến trình “chia ly” giữa mạng xã hội với báo chí, một tiến trình từ từ, chậm rãi nhưng giờ đây đã biểu lộ rõ ràng. Đây cũng là khoảng thời gian chúng ta đối mặt nhiều câu hỏi mà chưa thể rõ được câu trả lời, nhưng các cơ quan báo chí vẫn phải chủ động tiến về phía trước và tìm ra những con đường để tự quyết định vận mệnh của mình.
Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
Dư luận xã hội (DLXH) là một hiện tượng xã hội đặc biệt thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội và do tồn tại xã hội, tức khách thể của DLXH quy định. Tuy nhiên, các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu học và văn hóa, tâm lý,… của chủ thể DLXH cũng như môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nơi DLXH diễn ra, đều tác động hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình hình thành, phát triển và biến đổi của DLXH. Do đó, những nhân tố tác động đến quá trình hình thành DLXH có thể khái quát thành ba nhóm: nhóm yếu tố thuộc về khách thể của DLXH; nhóm yếu tố thuộc về chủ thể của DLXH và nhóm yếu tố thuộc về môi trường xã hội.
Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Hội nghị Paris là cuộc đụng đầu ngoại giao tay đôi đầu tiên giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, kết thúc bằng Hiệp định Paris. Hiệp định Paris đã góp phần tạo nên bước ngoặt rất quan trọng trong cuộc kháng chiến của dân tộc ta, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, từng bước đi vào giải pháp, chấm dứt chiến tranh và can thiệp ở Việt Nam. Việc Mỹ buộc phải “cút” khỏi miền Nam đã mở ra cục diện chính trị và chiến trường thuận lợi để quân và dân ta tiến tới “đánh cho ngụy nhào” mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Tăng cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trong bối cảnh hiện nay
Tăng cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trong bối cảnh hiện nay
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên là nội dung, biện pháp quan trọng của việc đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo để gắn kết dạy “chữ” với dạy “người”, đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao “vừa hồng”, “vừa chuyên” cho đất nước. Bài viết làm rõ vai trò của giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên; thực tiễn giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên với những điểm mạnh, hạn chế, nguyên nhân; đồng thời, đề xuất các biện pháp tăng cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trong thời gian tới.
Quyền tiếp cận thông tin cho đồng bào dân tộc thiểu số
Quyền tiếp cận thông tin cho đồng bào dân tộc thiểu số
Nhằm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân, nhiều năm qua, Việt Nam đã quan tâm xây dựng và ban hành nhiều chính sách, quy định pháp luật đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn, trong đó, chú trọng quyền tiếp cận thông tin đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin cho người dân bằng những giải pháp đồng bộ, những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước trên thực tế đã mang lại hiệu quả tích cực, góp phần phát huy, thúc đẩy vai trò của người dân, trong đó có cả các đồng bào dân tộc thiểu số trong các hoạt động xã hội và phát triển đất nước.
Bình luận