Ký ức làm báo binh nhì ở một “Thời hoa lửa”
Đó là một ngày vào cuối tháng Tám năm 1972. Cả một sư đoàn lính dù của quân Ngụy Sài Gòn được lệnh bao vây và giải tỏa Thành cổ Quảng Trị lúc đó do quân giải phóng Quảng Trị đang trụ bám bảo vệ. Bom, pháo liên tục như trút xuống thành cổ. Khi bom ngừng là lính dù ào lên, tấn công vào tất cả các chốt của quân giải phóng. Nhưng đã hơn hai tháng ròng, bom cứ trút, pháo cứ chụp, lính dù tấn công, Thành cổ vẫn vững vàng.
Tôi và Nguyễn Dĩnh, hai nhà báo binh nhì được lệnh vào Thành cổ để viết và chụp ảnh về những ngày chiến đấu căng thẳng ở đây. Gọi là nhà báo binh nhì là đúng với nghĩa đen của nó. Cuối tháng 2.1972, khi mặt trận Quảng Trị rền tiếng súng. Một phần đất Quảng Trị, trong đó có Thành cổ được giải phóng thì Trường Tuyên huấn Trung ương nơi tôi đang học, tuyển một lớp phóng viên đặc biệt mang tên: Phóng viên tiền phương. Nhập ngũ, năm mươi phóng viên trẻ măng chúng tôi đeo lên vai quân hàm binh nhì và khoác ba lô hăm hở vào ngay Quảng Trị. Khi địch nống ra chiếm lại Quảng Trị thì phần lớn lớp chúng tôi đã ra Bắc, chỉ để lại chiến trường có 7 anh em, trong đó có tôi. Đến tận hôm đó, tôi cũng chưa được vào Thành cổ. Nên nhận lệnh tôi rất lo và hồi hộp. Hồi mới vào đi cùng chúng tôi còn có ít nhất là một cậu lính trinh sát dẫn đường. Còn hôm đó chỉ có hai chúng tôi, hai nhà báo binh nhì. Rời trạm giao liên T70 Bãi Hà ở Vĩnh Linh, chúng tôi theo con đường rừng luồn lách tìm xuống quốc lộ 1. Đó là đường ngắn nhất để xuống Thành cổ.Hai anh em cũng phải cách nhau chừng năm mét để tránh những bất trắc. Nhưng đến bờ sông Sa Lung đoạn trên, chúng tôi buộc phải sát lại để dìu nhau lội qua khúc sống không sâu nhưng chảy mạnh này.
Vừa lên được bờ bên kia thì bỗng đâu giống như tiếng sét nổ trên đầu.Cả hai chúng tôi cùng kinh hoàng. Vừa trẫn tĩnh được chút ít thì lại nghe tiếng ì ì đâu đó rất gần. Nguyễn Dĩnh hét lên:
- Mẹ kiếp, máy bay...
- Máy bay gì bay thấp thế?
- F8U
- F8U là gì - Tôi hỏi
- Biết quái đâu được. Chạy đi không nó tương cho trái rốc két chết bây giờ...
Chúng tôi khoác vội chiếc ba lô, xốc lại dây đeo súng và lúp xúp chạy theo con đường mòn từ bờ sông lên. Nhưng chúng tôi quên, chỉ lên hết con đường đó là gặp một cánh đồng trống không. Nhưng cũng yên tâm vì không còn thấy bóng dáng chiếc máy bay đâu nữa. Bỗng nghe một tiếng động chói tai. Chiếc máy bay lúc nãy giống như con yêu tinh hiện ra ngay trên đầu chúng tôi, tưởng như có thể với tay là đụng được nó. Dĩnh lại hét lên: "chạy". Biết chạy đường nào. Xuống ruộng thì lầy, quay lại rừng thì xa. Chỉ có mỗi một con đường bờ ruộng thôi. Đành nhắm mắt mà chạy chớ biết sao bây giờ. Ba lô nảy xóc trên lưng, súng ngắn đập vào giò. Túi mìn Cơ-lây-mo trong đó có cái máy ảnh Praktica đập vào bụng. Chiếc máy bay lại sà xuống, lần này nó không còn hăm dọa nữa mà xỉa xuống hai chúng tôi một tràng đạn súng máy. Đạn cày trên mặt đất cách chúng tôi chừng hai chục thước. Kiểu này là nó muốn xơi tái hai chúng tôi rồi. Phải liều thoát thân thôi. Chúng tôi chạy thục mạng. Dĩnh cao giò nên chạy trước tôi. Anh quay lại la lên: "Kiếm cái bờ ruộng mà nấp vào". Tôi hiểu ý anh: mỗi lần chiếc máy bay chúc xuống thì sau đó buộc nó phải nhao lên, quay ngược lại và phải bay lên thật cao rồi mới bổ nhào xuống. Thế là cuộc đuổi bắt diễn ra thực lý thú. Mỗi lần chiếc máy bay chúc xuống là một tràng súng lại rộ lên, những viên đạn cầy lên mặt đất. Chúng tôi như chọc tức nó. Khi tràng súng vừa nổ, chúng tôi lại bật dậy ào ào chạy tới. Nó quay ngoắt lại, bổ nhào nữa. Không biết chúng xả bao nhiêu tràng súng, và chúng tôi chạy không biết bao nhiêu đường đất. Thêm một lần bổ nhào nữa mà không thấy súng nổ, Nguyễn Dĩnh đứng vụt dậy la lên: "Hết đạn rồi hả? Chơi nữa không mày?". Vừa hét xong đã thấy chiếc máy bay ngóc lên. Rồi, nó phát hiện mục tiêu rồi. Lần này thì toi.Dĩnh rút khẩu K54 bên người, lên đạn nằm phục xuống. Khi chiếc máy bay sà xuống thêm một lần nữa, Dĩnh đứng dậy. Sau một câu chửi tục, anh bấm một lúc hết luôn cả băng đạn trong khẩu K54. Tôi quên nguy hiểm phá lên cười: "Máy bay Mỹ có ghẻ đâu mà mày gãi, Dĩnh". Dĩnh buông thêm một câu chửi tục nữa rồi cũng phá lên cười. Ô hay, thế mà cái máy bay bay đi luôn."Hết mẹ nó đạn rồi, bọn Mỹ này xài sang thực. Có hai thằng binh nhì mà tốn mấy thùng đạn mà không ăn thua gì" Dĩnh nói thế và lại bật cười. Cả hai chúng tôi, người chạt sình bùn. Hai chiếc ba lô quăng đi từ lúc nào. Trên người chỉ còn có những cái túi máy ảnh và khẩu súng. Chúng tôi vừa thở, vừa quay lại tìm ba lô. Trong đó ngoài một bộ quần áo, lương khô còn có thêm cái tăng và cái võng. Đó là hai thứ không thể thiếu trong chiến trường. Tăng che mưa che nắng, còn để bó xác lỡ hy sinh. Võng để thay giường ngủ. Nhưng nó còn để cáng khi lỡ bị thương.
Quá trưa, chúng tôi đến bờ sông Bến Hải. Trong những ngày ở mặt trận Quảng Trị, đã mấy lần tôi có mặt ở bờ sông này. Lần nào cũng xúc động. Cây cầu Hiền Lương còn đó. Chiến tranh đã khắc lên mình nó những vết thương. Lâu nay, không có người, không có xe chạy trên cầu ấy. Đó là Vĩ tuyến 17, nơi cách chia hai miền Nam Bắc suốt bao năm trời. Giải phóng Quảng Trị, rồi sẽ giải phóng Miền Nam, nơi này sẽ không còn là giới tuyến nữa. Tôi bảo Nguyễn Dĩnh: "Hôm nay không đi đò nữa. Bơi qua sông?" "Bơi hả. Thì bơi. Nhưng bơi ở chỗ nào". "Ngay chân cầu Hiền Lương này!". "Điên hả mày? Thuỷ lôi, bom từ trường đầy dưới đó đó". Thằng F8U lúc nãy ngay trên đầu còn chẳng sợ, còn thuỷ lôi, bom từ trường toàn nghe người ta nói. Một lần thôi, bơi được qua sống Bến Hải, là sướng rồi". Chúng tôi bỏ tất cả mọi thứ vào một cái bao ni lon, loại bao gạo của Trung Quốc. Thế là thành một cái phao. Chúng tôi lội xuống nước. Nước sông Bến Hải, vào tháng tám miền Trung nóng như rang, mát lạnh. Chúng tôi cứ lần theo chân cầu Hiền Lương mà bơi qua. Trong cuộc hành quân vào mặt trận, đã bơi qua sông Hiếu, đã lội dòng Sa Lung, đã ngoi ngóp trên sông Thạch Hãn, đã tắm ở dòng sông Mỹ Chánh, nhưng nước mát của dòng sông Bến Hải hôm đó in hoài trong trí nhớ tôi.
Thành cổ Quảng Trị đã cho tôi hàng loạt bài viết: "Trận địa phía Tây nam Thành cổ" in báo Nhân dân. Kể về một cuộc bám chốt giữ đất hất tung những cuộc tấn công của lính dù Ngụy ra khỏi Thành cổ. Ngày ấy chúng treo giải: đứa nào cắm được một lá cờ ba que lên tường Thành cổ sẽ được thưởng hai mươi ngàn tiền Ngụy và 10 ngày nghỉ phép. Nhưng chỉ một cái cờ bằng bàn tay chúng cũng không cắm được lên mặt thành Tây nam. Bài "Tổ chốt Hán Duy Long" đăng trên báo Tiền phong kể về một tổ chốt có 4 người Long, Tam, Nghinh, và Sừ, một ngày đánh không biết bao nhiêu trận. Giếng nước trong Thành cổ lẫn xác người chết đã thối. Nước uống phải chuyển từ ngoài vào cho mỗi người, mỗi ngày chỉ có một bi đông. Hai bi đông nước bị đạn thủng. Một bi đông chia nhau uống. Bi đông cuối cùng được biến thành giải thưởng. Ai bắn được một tên lính dù sẽ thưởng một ngụm nước. Đến cuối ngày bi đông nước còn nguyên môi ai cũng khô rát mà không ai muốn uống. Trận tấn công cuối cùng ồ ạt, khẩu trung liên đỏ nòng, đạn bắn ra vãi ngay trước mặt. Những giọt nước từ chiếc bi đông tưới lên nòng súng. Khẩu súng lại lên tiếng. Tổ chốt Hán Duy Long sau đó được tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang. Tôi còn được viết về Đỗ Mến, tiểu đoàn 3 bộ đội địa phương Quảng Trị đã cùng đơn vị bám trụ suốt hơn 80 ngày trong Thành cổ. Đơn vị sau này đã cũng được tuyên dương Anh hùng. Bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu bài viết, trong những ngày làm báo ở Quảng Trị vậy mà nước mát dòng Bến Hải hồi đó không quên trong ký ức người làm báo như tôi.
Nguyễn Dĩnh bây giờ là đại tá, Phó cục trưởng Cục Văn hoá - Tư tưởng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Mới đây, có dịp lên Tây Ninh, anh đã tìm tôi. Thời gian chỉ đủ để chúng tôi nhắc lại cái ngày bơi qua sông Bến Hải và cười nhớ cảnh Nguyễn Dĩnh dùng súng ngắn bắn máy bay ngày xưa./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền tháng 1,2 năm 2006
Bài liên quan
- Thông điệp về “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
- Chuyện tặng sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho Thư viện Karl Marx
- Tấm gương bình dị trong một nhân cách lớn
- Người chụp cả vạn bức ảnh đẹp về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
- Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
Xem nhiều
- 1 Mạch Nguồn số 56: Dấu ấn về mùa thu lịch sử
- 2 Thông điệp về “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
- 3 10 thành tựu nổi bật của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong 10 năm (2014 – 2024)
- 4 Phản ứng của Trung Quốc đối với chính sách hành động hướng đông của Ấn Độ
- 5 Chuẩn cơ sở giáo dục đại học của Học viện Báo chí và Tuyên truyền: Đánh giá và giải pháp, kiến nghị
- 6 Quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới qua báo điện tử VietnamPlus
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
10 thành tựu nổi bật của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong 10 năm (2014 – 2024)
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự quan tâm của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương, qua 75 năm xây dựng và trưởng thành (1949 - 2024), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã nỗ lực phấn đấu, không ngừng xây dựng và phát triển, phục vụ hiệu quả sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Thông điệp về “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
Thông điệp về “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
Xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 40 của thế kỷ 20, tranh cổ động gắn liền với lịch sử cách mạng Việt Nam và trở thành một phần quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân Việt Nam. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, tranh cổ động trở thành thứ vũ khí tinh thần mạnh mẽ trong hành trình giành độc lập dân tộc. Tuy nhiên, tranh cổ động không chỉ mang trong mình sứ mệnh tuyên truyền vận động, cổ vũ, tinh thần chiến đấu, thúc giục mọi người tham gia chiến đấu, mà còn mang trong đó những giá trị thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật cùng những thông điệp về khát vọng hoà bình. Bài viết này tập trung tìm hiểu về thông điệp “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (từ năm 1954 - 1975).
Chuyện tặng sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho Thư viện Karl Marx
Chuyện tặng sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho Thư viện Karl Marx
Đầu năm 2022, Hội đồng Lý luận Trung ương phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật cho ra mắt công chúng cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Là cán bộ trường Đảng, chúng tôi may mắn sớm được nhận cuốn sách để làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị, báo chí - truyền thông. Đặc biệt, chúng tôi đã mang cuốn sách đó làm quà tặng Thư viện Karl Marx ở thủ đô London, Vương quốc Anh.
Tấm gương bình dị trong một nhân cách lớn
Tấm gương bình dị trong một nhân cách lớn
Khi Bộ Chính trị thông báo về tình hình sức khỏe của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Nhân dân cả nước và bè bạn quốc tế lo lắng, cầu mong sức khỏe của Tổng Bí thư sẽ hồi phục. Nhưng phép màu nhiệm đã không đến... 13 giờ 38 phút ngày 19 tháng 7 năm 2024, trái tim người con ưu tú của đất nước, Nhân dân Việt Nam đã ngừng đập…
Người chụp cả vạn bức ảnh đẹp về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Người chụp cả vạn bức ảnh đẹp về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Tôi biết nhà báo Lê Trí Dũng từ năm 1992. Khi đó, anh đang là sinh viên lớp đại học báo chí Khóa 10 (1992-1995), Khoa Báo chí, trường Đại học Tuyên giáo (nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền). Lúc này, các lớp đại học báo chí có hai đối tượng học chung, đó là cán bộ đang làm việc ở các cơ quan báo chí và học sinh mới tốt nghiệp trung học phổ thông.
Bình luận