Lợi ích của các nước ASEAN và Trung Quốc trong việc phát triển quan hệ hợp tác thời kỳ sau chiến tranh lạnh
Trong lịch sử, quan hệ giữa các nước được duy trì và phát triển dựa trên lợi ích thực tế của mỗi nước thu được từ mối quan hệ ấy. Quan hệ ASEAN - Trung Quốc trong thời gian qua cũng không nằm ngoài nguyên tắc này. Quan hệ của các nước ASEAN, giữa ASEAN với Trung Quốc có một tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của mỗi nước, đồng thời phản ánh tập hợp những lợi ích mà họ hướng tới.
1- Quan hệ ASEAN - Trung Quốc tạo tiền đề phát triển nhanh về kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học công nghệ cho cả ASEAN và Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI
Trung Quốc và các nước ASEAN do gần gũi về mặt địa lý, có quan hệ mật thiết về dân tộc, có sự tương đồng về văn hóa đồng thời có sự bổ sung cho nhau về mặt kinh tế... Trên phương diện kinh tế, có sự bổ sung lẫn nhau giữa các nước ASEAN với Trung Quốc. Tuy Trung Quốc có tương đối hoàn chỉnh về các loại tài nguyên, một số loại (than, kim loại màu) rất phong phú, nhưng bình quân theo đầu người về tài nguyên chỉ bằng một nửa bình quân của thế giới. Chẳng hạn về dầu mỏ, trong thập niên 90 vừa qua, Trung Quốc mới tạm thỏa mãn nhu cầu trong nước, sang những năm đầu của thế kỷ XXI này, họ đã và sẽ phải nhập nhiều hơn dầu mỏ từ các nước ASEAN. Trung Quốc từ nay về sau vẫn tiếp tục là một thị trường lớn nhập các hàng (cao su, dầu cọ, gỗ, hàng gia công gỗ và gia công nguyên liệu...) của các nước ASEAN.
Trình độ kinh tế và cơ cấu ngành ở các vùng phía Đông, miền Trung và miền Tây Trung Quốc có sự chênh lệch lớn. Các nước ASEAN cũng có sự chênh lệch về kinh tế và cơ cấu ngành nghề (tầng thứ nhất: Singapo, Brunây; tầng thứ hai: Malaysia, Thái Lan; tầng thứ ba: Việt Nam, Mianma, Cămpuchia, Lào). Như vậy về cơ cấu ngành nghề các vùng ở Trung Quốc có thể bổ sung cho các tầng nấc của các nước ASEAN.
Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, cho đến nay 3/4 hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc là hàng hóa chế thành phẩm. Còn các nước ASEAN (trừ Singapo, Thái Lan, Malaysia, Philippin) thì đều xuất hàng sơ chế là chủ yếu. Hiện nay, hàng cơ điện chiếm 24% hàng xuất khẩu của Trung Quốc, trong khi đó đa số các nước ASEAN lại có nhu cầu lớn về nhập khẩu các loại hàng này, nên đây là sự bổ sung rất hiệu quả cho nhau trong hợp tác và phát triển giữa ASEAN với Trung Quốc.
Về trình độ kỹ thuật - công nghệ, Trung Quốc tuy lạc hậu so với một số nước ASEAN về trình độ hiện đại hóa trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ sản xuất, nhưng cũng có một số công nghệ, ngành kỹ thuật mũi nhọn như hàng không vũ trụ và nguyên tử (như Inđônêxia đã thuê tên lửa đẩy của Trung Quốc để phóng vệ tinh nhân tạo) có thể xuất khẩu hoặc làm dịch vụ cho các nước ASEAN. Mặt khác, Trung Quốc hiện nay đang có một đội ngũ lớn cán bộ chuyên môn, kỹ thuật có tay nghề cao, được đào tạo cơ bản nhưng lương thu nhập còn thấp. Trong khi đó, một số nước ASEAN lại thiếu lực lượng nhân viên kỹ thuật tay nghề cao nên có thể bổ sung cho nhau.
Cả Trung Quốc và ASEAN đều là những thị trường có tiềm năng lớn lại ở gần nhau nên việc bổ sung, hỗ trợ, thẩm thấu vào nhau giữa các nền kinh tế là rất thuận lợi đáp ứng với nhu cầu phát triển nhanh của mỗi nước. Trung Quốc và ASEAN có một số lĩnh vực có thể đầu tư lẫn nhau, tiềm năng này đang được khai thác và nó là tiền đề cho sự hợp tác phát triển hơn nữa của mỗi nước trong những năm đầu thế kỷ XXI.
ở một góc độ khác, các tỉnh, các khu tự trị như Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Phúc Kiến... ở miền Hoa Nam (Trung Quốc) không chỉ là láng giềng của các nước ASEAN mà trong lịch sử có nhiều đợt di cư tới Đông Nam á. Hiện nay, có nhiều người Hoa sống ở các nước ASEAN. Những người Hoa này có nhiều vốn, có mạng lưới kinh doanh khắp thế giới, họ đã, đang và sẽ còn đóng vai trò chiếc cầu nối về hợp tác kinh tế giữa ASEAN với Trung Quốc.
Trung Quốc và các nước ASEAN về cơ bản có chính sách kinh tế đối nội và đối ngoại gần giống nhau. Thể chế kinh tế thị trường có sự tham gia điều tiết của nhà nước và nhằm hướng tới sự phát triển bền vững là nét cơ bản của chính sách kinh tế mà các nước này đang thực thi. Sự tương đồng này đang tạo điều kiện cho các nền kinh tế thâm nhập hỗ trợ lẫn nhau cùng nhau phát triển, cùng nhau thịnh vượng.
Trong mở cửa đối ngoại, cả các nước ASEAN lẫn Trung Quốc đều chú trọng xây dựng các đặc khu kinh tế, phát triển các khu vực ưu đãi thuế quan và tiến tới xây dựng khu vực mậu dịch tự do... Các nước đều là thành viên của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế... Những nét tương đồng này cho phép ASEAN và Trung Quốc có thể bổ sung và hỗ trợ nhau cùng phát triển.
Các nước ASEAN và Trung Quốc trên nhiều vấn đề quan trọng về quan hệ song phương, quan hệ ở khu vực châu á - Thái Bình Dương và các vấn đề quốc tế đều có những điểm chung. Ví dụ, đều ủng hộ hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới; đều dồn sức cho phát triển kinh tế, coi đó là nhiệm vụ trung tâm; cùng nhau thúc đẩy hợp tác bình đẳng, cùng có lợi ở khu vực và toàn cầu; đều tuân thủ nguyên tắc chung sống hòa bình, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, chủ trương tăng cường đối thoại và hợp tác, giải quyết hòa bình những tranh chấp giữa các nước; hai bên lý giải giống nhau về quan niệm nhân quyền, chống việc lợi dụng nhân quyền để phá hoại chủ quyền, chính sách độc lập dân tộc của mỗi quốc gia... Đối với các vấn đề quốc tế lớn cả ASEAN và Trung Quốc cũng chia sẻ nhiều điểm chung và nhận thức tương đối giống nhau. Tất cả những điểm đó đều tạo tiền đề cho sự hợp tác, phát triển của mỗi nước thành viên trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế ở thế kỷ XXI này.
2- Tăng cường quan hệ ASEAN - Trung Quốc về mọi mặt có ý nghĩa quan trọng trong việc duy trì, củng cố và tăng cường hòa bình, an ninh trong khu vực
Hòa bình, ổn định và an ninh của khu vực Đông Nam á tùy thuộc vào các yếu tố bên trong và bên ngoài khu vực. ASEAN đã mở rộng ra toàn khu vực Đông Nam á và các quốc gia thành viên đều cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, do vậy khả năng gây mất ổn định trong nội bộ khu vực là rất nhỏ, có thể loại bỏ. Trong những thập niên qua, sự không ổn định của khu vực thường do những tranh chấp giữa các cường quốc bên ngoài ASEAN gây ra. Chiến lược của các cường quốc đối với ASEAN trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI có thể vẫn còn nhiều khác nhau, nhưng có một điểm chung là muốn cho khu vực này hòa bình, ổn định. Lợi ích chiến lược cũng như lợi ích thương mại, kinh tế của các cường quốc ở Đông Nam Á trong các thập kỷ tới gắn nhiều hơn với sự hòa bình ổn định của khu vực, Đông Nam á là một thị trường mới trỗi dậy, có tốc độ tăng trưởng cao, là một trong những đầu mối giao thông liên lạc quan trọng của thế giới, các quan hệ kinh tế, thương mại giữa các cường quốc với ASEAN ngày càng tăng lên. Sự mất ổn định của một Đông Nam á không có lợi gì cho các cường quốc.
Mặt khác, để có được môi trường hòa bình, ổn định, các quốc gia Đông Nam á cũng luôn phải điều chỉnh sao cho cân bằng quyền lực giữa các cường quốc trong khu vực. Một diễn đàn an ninh đa phương với cơ chế đủ mặt các cường quốc liên quan ở khu vực là một sáng kiến quan trọng trong bước đường tìm kiếm hòa bình, ổn định. Hơn nữa, hòa bình, ổn định của Đông Nam á cũng không tách khỏi hòa bình, ổn định của châu Á - Thái Bình Dương cũng như của toàn thế giới. Vì vậy, mở rộng quan hệ hợp tác với nước láng giềng Trung Quốc là một bước đột phá quan trọng trong việc đảm bảo hòa bình, an ninh khu vực. Vị thế, vai trò của Trung Quốc đang không ngừng tăng lên ở khu vực cũng như thế giới, tăng cường hợp tác với Trung Quốc cũng chính là tạo thế cân bằng về quyền lực với Mỹ và Nhật Bản ở khu vực. Sau sự kiện 11.9.2001, an ninh ở khu vực Đông Nam á có phần bất ổn hơn, bởi ở đây có sự hiện diện của mạng lưới khủng bố Hồi giáo cực đoan. Cùng với việc gia tăng chống khủng bố trên toàn cầu, Mỹ và Nhật Bản đã đưa lực lượng quân sự của mình vào một số nước Đông Nam á nhằm bảo vệ huyết mạch giao thông và việc cung cấp dầu cho Nhật Bản. Khác hẳn thập niên 90 của thế kỷ XX, những năm đầu thế kỷ XXI này ở khu vực Đông Nam á lại hiện diện khá đầy đủ các cường quốc nhưng chiến tranh không trở lại. Hiện nay, tại khu vực Đông Nam á với việc hình thành khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN (CAFTA) là một hấp dẫn lớn đối với các cường quốc đang có lợi ích ở khu vực. Tuy nhiên việc giải quyết những tranh chấp, xung đột giữa các nước ASEAN, giữa ASEAN với Trung Quốc chỉ có thể là đối thoại và hợp tác. Xu thế hòa bình và ổn định của Đông Nam á đã nằm trong xu thế phát triển chung của thế giới. Việc thành lập cộng đồng kinh tế, cộng đồng an ninh, cộng đồng văn hóa xã hội của các nước ASEAN trong một tương lai gần là một bước tiến trong quá trình nhất thể hóa khu vực. Tuy còn rất nhiều khó khăn nhưng việc tiến tới cơ chế cộng đồng là hướng đi đúng. Một ASEAN thống nhất sẽ là một thực thể mạnh chủ động trong quan hệ với các cường quốc mà không sợ bị thua thiệt.
3- Đẩy mạnh quan hệ ASEAN - Trung Quốc là cơ sở quan trọng đối với cả ASEAN lẫn Trung Quốc trong quá trình mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới
Việc thành lập khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN vào năm 2010 là bước tiến dài trong quan hệ giữa hai thực thể này. Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN sẽ làm cho sự hợp tác kinh tế song phương mật thiết hơn, có lợi cho cả hai bên, thực hiện hỗ trợ phát huy lợi thế của nhau, mở rộng quy mô thương mại và hợp tác kinh tế, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước có liên quan, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế khu vực, cùng nhau đối phó với những thách thức của toàn cầu hóa kinh tế và nhất thể hóa khu vực.
Đối với ASEAN, việc xây dựng khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN là cơ sở cho ASEAN mở rộng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc - một thị trường lớn đầy tiềm năng, thúc đẩy thực hiện hơn nữa đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, giảm thiểu sự ỷ lại nghiêm trọng vào các nước phương Tây, từ đó giảm thiểu những dao động của nền kinh tế do ảnh hưởng của thế giới bên ngoài gây nên. Điều này dễ dàng nhận thấy trong năm tài khóa 2001, kim ngạch thương mại của ASEAN với đa số đối tác thương mại giảm do nền kinh tế thế giới xấu đi, duy chỉ có thương mại của Trung Quốc với ASEAN tiếp tục tăng trưởng đạt 41,61 tỷ USD(1).
Đối với Trung Quốc, xây dựng khu vực mậu dịch tự do với ASEAN là một biện pháp quan trọng trong việc nước này tham gia vào hệ thống thương mại quốc tế đa phương, đồng thời tăng cường hợp tác kinh tế khu vực với các nước láng giềng. Thắt chặt quan hệ kinh tế với các nước ASEAN có lợi cho việc đẩy nhanh bước tiến đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại. Quan hệ kinh tế đối ngoại giữa Trung Quốc và ASEAN chủ yếu trên ba phương diện chính là mậu dịch song phương; đầu tư hai chiều; du lịch hai chiều. Hiện nay, ASEAN là đối tác lớn thứ 5 của Trung Quốc đứng sau Nhật, Mỹ, EU và Hồng Công, còn Trung Quốc là đối tác lớn thứ 6 của ASEAN.
Phát triển quan hệ nhiều mặt giữa Trung Quốc với ASEAN và ngược lại là cơ sở cho mỗi bên có điều kiện thuận lợi hơn, có vị thế cao hơn, lợi thế so sánh hơn trong quan hệ với các nước ở khu vực châu á - Thái Bình Dương cũng như trên toàn thế giới. Nền kinh tế Trung Quốc và nền kinh tế của các nước ASEAN có thêm điều kiện bổ khuyết, hỗ trợ lẫn nhau tạo thêm lợi thế khi quan hệ với các nước khác. Hiện nay nếu một quốc gia nào đó có ý định hợp tác, đầu tư làm ăn với một nền kinh tế nào của ASEAN hay Trung Quốc, họ đều tính đến triển vọng đến năm 2010 sẽ được hưởng quy chế ưu đãi của khu vực mậu dịch tự do khổng lồ này. Vì vậy, việc tăng cường quan hệ giữa ASEAN với Trung Quốc có tầm quan trọng đặc biệt, nó là cơ sở cho các quốc gia thành viên thực hiện đường lối ngoại giao đa phương, mở cửa hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới.
4 - Phát triển quan hệ ASEAN - Trung Quốc không chỉ mở rộng giao lưu, tăng nhanh hiểu biết lẫn nhau, xóa dần tâm lý lo ngại, nghi kị lẫn nhau, mà còn phát triển trao đổi văn hóa, thông tin du lịch giữa các nước ASEAN với các vùng miền của Trung Quốc
Cả Trung Quốc lẫn các nước ASEAN không những có nhiều nét tương đồng về văn hóa mà còn có chung thân phận lịch sử là phải chịu sự xâm lược và thống trị của thực dân phương Tây. Cả hai bên đều hiểu rất rõ về giá trị của một nền chính trị độc lập. Với điều kiện lịch sử như vậy, lẽ ra các nước Đông Nam á và Trung Quốc hơn ai hết dễ dàng thông cảm và dễ dàng xích lại gần nhau hơn. Nhưng thực tế không đơn giản như vậy. Để có thể thực sự hiểu được nhau và có được mối quan hệ đối thoại như ngày nay, các nước ASEAN và Trung Quốc phải trải qua những bước thăng trầm kéo dài từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay. Vì vậy, có thể nói rằng giai đoạn hiện nay là thời kỳ phát triển nhất trong quan hệ song phương ASEAN - Trung Quốc. Rõ ràng là, hiện nay các nước ASEAN và Trung Quốc đều cải thiện và phát triển quan hệ một cách tích cực và chủ động chứ không phải chỉ là kế sách thích nghi tạm thời. Đây là một bước ngoặt trong quan hệ mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc phù hợp với xu thế của thế giới sau chiến tranh lạnh.
Xây dựng quan hệ láng giềng hữu nghị là một chính sách đối ngoại quan trọng của các nước ASEAN cũng như của Trung Quốc. Xây dựng được mối quan hệ láng giềng hữu nghị sẽ tạo dựng được niềm tin tưởng lẫn nhau ngày càng sâu đậm và tốt đẹp hơn. Với sự nỗ lực của cả hai bên quan hệ ASEAN - Trung Quốc gần đây phát triển nhanh chóng, niềm tin chính trị song phương được nâng lên rõ rệt, sự giao lưu về kinh tế ngày càng gia tăng, lĩnh vực hợp tác không ngừng mở rộng thúc đẩy sự phát triển chung trong khu vực. Cùng với sự phát triển về mặt kinh tế, chính trị, giao lưu trao đổi văn hóa, thông tin, du lịch giữa các nước ASEAN với các vùng miền của Trung Quốc cũng tăng nhanh. Chính những hoạt động cụ thể đó đã tạo điều kiện thúc đẩy sự hợp tác toàn diện trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa các nước ASEAN và Trung Quốc. Mọi tranh chấp, bất đồng giữa hai bên đều được giải quyết triệt để hơn trên cơ sở hòa bình, hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau. Điều này chẳng những phù hợp với lợi ích của nhân dân Trung Quốc và nhân dân các nước ASEAN mà còn có lợi cho việc thúc đẩy hòa bình, ổn định và phồn vinh của khu vực Đông Nam á cũng như trên toàn thế giới.
Tóm lại: Quan hệ giữa các nước ASEAN với Trung Quốc đang được đẩy nhanh và ngày càng hoàn thiện, nó thể hiện tính cấp thiết và tầm quan trọng đặc biệt của mối quan hệ này đối với sự phát triển chung của khu vực. Tương lai của Đông Nam á không thể tách rời với những xu hướng phát triển của thế giới đương đại. Thế giới hòa bình, ổn định là cơ hội vàng cho hòa bình ổn định ở Đông Nam á. Toàn cầu hóa, khu vực hóa được đẩy mạnh sẽ thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ ASEAN - Trung Quốc. Hai thực thể này sẽ còn tiếp tục bổ sung, hỗ trợ nhau cùng phát triển theo hướng bền vững. Sự thịnh vượng của ASEAN và Trung Quốc cũng là sự thịnh vượng chung của châu Á - Thái Bình Dương. Sự hợp tác liên kết giữa ASEAN và Trung Quốc sẽ tạo nên xung lực mới thúc đẩy sự phát triển chung của khu vực và thế giới, góp phần củng cố xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác./.
______________________________________
(1) Xem Thiếu Liêm "Công tác đối ngoại của Trung Quốc đầu thế kỷ mới", Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 2 (2003), tr.43.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền tháng 1,2 năm 2006
Bài liên quan
- Nội dung, phương thức và vai trò lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh trong thu hút đầu tư nước ngoài
- 65 năm quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - CuBa
- Những đột phá trong đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới
- Một số tác động của cuộc xung đột Nga - Ucraina đối với Việt Nam
- Thắt chặt hợp tác Việt - Trung: Học viện Báo chí và Tuyên truyền và Đài Phát thanh Truyền hình Trung ương Trung Quốc ký Biên bản ghi nhớ hợp tác
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
5
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
-
6
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều thay đổi mang tính căn bản và toàn diện, hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng đang triển khai mạnh mẽ quá trình chuyển đổi nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và quản trị tổ chức. Quá trình này diễn ra ở nhiều chiều cạnh: từ cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, văn hóa làm việc đến yêu cầu về năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ. Trong đó, đội ngũ nữ cán bộ, giảng viên, người lao động của Học viện giữ vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ là lực lượng nòng cốt trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn mà còn là những chủ thể tích cực tham gia kiến tạo môi trường làm việc đổi mới, nhân văn và phát triển bền vững. Trước yêu cầu thay đổi nhanh chóng, việc xây dựng tâm thế chủ động, nâng cao năng lực thích nghi và khả năng cân bằng của nữ cán bộ trở thành yếu tố then chốt, góp phần khẳng định vị thế của phụ nữ Học viện trong tiến trình chuyển đổi, đồng thời tạo nền tảng cho sự phát triển ổn định, lâu dài của đơn vị.
Nội dung, phương thức và vai trò lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh trong thu hút đầu tư nước ngoài
Nội dung, phương thức và vai trò lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh trong thu hút đầu tư nước ngoài
Thu hút đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, giúp bổ sung nguồn vốn, chuyển giao công nghệ, tạo việc làm, nâng cao năng lực quản lý và mở rộng thị trường xuất khẩu… Lãnh đạo thu hút đầu tư nước ngoài giữ vai trò then chốt trong việc xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn, minh bạch và ổn định. Trên cơ sở đó, định hướng chính sách, cải cách thủ tục hành chính, cải thiện hạ tầng và thúc đẩy quan hệ đối ngoại. Đồng thời, lãnh đạo còn chủ động tiếp xúc nhà đầu tư, giải quyết vướng mắc, tạo niềm tin và khuyến khích hợp tác lâu dài. Trên tinh thần đó, bài viết làm rõ nội dung, phương thức và vai trò lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh trong thu hút đầu tư nước ngoài.
65 năm quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - CuBa
65 năm quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - CuBa
Quan hệ hợp tác ngoại giao Việt Nam – Cuba trong 65 năm qua luôn là quan hệ nghĩa tình, sắt son, bền vững. Trong bối cảnh thế giới và các khu vực có nhiều biến động như hiện nay, các quốc gia đứng trước những cơ hội và thách thức mới, tình đoàn kết gắn bó keo sơn, nghĩa tình giữa Việt Nam và Cuba vẫn luôn là ngọn đuốc soi sáng con đường quan hệ hợp tác ngoại giao vì lợi ích chính đáng của hai dân tộc và nhân dân hai nước, đóng góp tích cực vào nỗ lực chung vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở từng khu vực và trên thế giới.
Những đột phá trong đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới
Những đột phá trong đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới
Từ tiền đề xuất phát với nhiều khó khăn, thăng trầm ở cả trong nước và thế giới; đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta thời kỳ đổi mới gắn với quá trình “chuyển mình” của đất nước với những đột phá: Việt Nam muốn là bạn với các nước; là bạn, là đối tác tin cậy; là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Vì vậy, trong mỗi chặng đường, thế và lực, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được khẳng định. Đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta đã minh họa về tầm tư duy lý luận sắc sảo của Đảng trong bang giao quốc tế, góp phần quan trọng trong xây dựng thế giới hòa bình, phát triển.
Một số tác động của cuộc xung đột Nga - Ucraina đối với Việt Nam
Một số tác động của cuộc xung đột Nga - Ucraina đối với Việt Nam
Xung đột quân sự giữa Nga và Ucraina từ đầu năm 2022 đến nay là một biến cố địa - chính trị lớn có những tác động sâu rộng đến toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Là một quốc gia có vị trí địa chiến lược quan trọng, nền kinh tế hội nhập sâu rộng và chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức trong việc duy trì ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thế cân bằng trong quan hệ đối ngoại. Bài viết phân tích làm rõ một số tác động của cuộc xung đột đến tình hình an ninh, chính trị, kinh tế của Việt Nam, bao gồm những vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận