Mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2004
I. Khái quát về cuộc khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2004
Ngày 12.12.2003, Tổng cục Thống kê đã có quyết định số 697/QĐ - TCTK -XHMT về việc tiến hành khảo sát mức sống hộ gia đìnhViệt Nam năm 2004. Đây là cuộc khảo sát mức sống hộ gia đình lần 2 của Tổng cục Thống kê tiến hành 2 năm một lần từ 2002 đến 2010 nhằm theo dõi và giám sát một cách có hệ thống mức sống các tầng lớp dân cư Việt Nam; đồng thời nhằm thực hiện trách nhiệm giám sát, đánh giá việc thực hiện Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo được qui định trong Văn kiện Chiến lược đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ngoài ra cuộc khảo sát này còn góp phần đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và các mục tiêu phát triển mà Chính phủ Việt Nam đã đề ra.
Khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2004 được cải tiến trên cơ sở những nội dung của cuộc Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002, có bổ sung 2 nội dung mới là “Đất nông, lâm nghiệp, thủy sản” và “Các ngành nghề phi nông, lâm nghiệp, thủy sản” để phục vụ phân tích theo chuyên đề. Cuộc khảo sát đã được chuyên gia của cơ quan thống kê Liên hiệp quốc và Ngân hàng thế giới hỗ trợ kỹ thuật trong giai đoạn chuẩn bị, gồm thiết kế phiếu điều tra và chọn mẫu.
Khảo sát mức sống 2004 sử dụng 2 loại phiếu điều tra: phiếu phỏng vấn hộ gia đình và phiếu phỏng vấn xã. Các phiếu hỏi được thiết kế đảm bảo tính khoa học, có tính khả thi và đã được thử nghiệm qua điều tra thí điểm đợt 1 ở Vĩnh Phúc, Cần Thơ, đợt 2 ở Yên Bái, An Giang, Bình Định và Thành phố Hồ Chí Minh.
Mẫu khảo sát được chọn dựa trên mẫu chủ các địa bàn điều tra của Tổng cục điều tra Dân số và Nhà ở năm 1999 với cỡ mẫu gồm 49.500 hộ đại diện cho cả nước, khu vực thành thị, nông thôn và 64 tỉnh, thành phố.
Số mẫu trên được chia làm 2 loại: 36.720 hộ điều tra thu nhập và 9.180 hộ điều tra thu nhập và chi tiêu. Mẫu điều tra được chia thành 2 mẫu con để tiến hành điều tra thu thập số liệu theo 2 đợt trong năm 2004, đợt 1 vào tháng 5 và đợt 2 vào tháng 9.
Thời gian thu thập số liệu tại địa bàn trung bình mỗi đợt là 1 tháng. Kết quả điều tra của từng đợt được làm sạch, nhập tin 2 lần tại các Cục Thống kê 64 tỉnh, thành và truyền số liệu về Tổng cục Thống kê.
Để kịp thời cung cấp một số thông tin chủ yếu đánh giá mức sống các tầng lớp dân cư trong năm 2003 - 2004, Tổng cục Thống kê công bố kết quả sơ bộ Khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2004. Kết quả chính thức của cuộc khảo sát sẽ được công bố sau.
II. Kết quả sơ bộ
Trong năm 2003 -2004, đời sống các tầng lớp dân cư Việt Nam ở các vùng, miền trên cả nước vẫn tiếp tục được cải thiện hơn trước, thể hiện ở các số liệu định lượng dưới đây:
1.Về thu nhập của dân cư
Trong năm 2003 - 2004, thu nhập bình quân 1 người 1 tháng chung cả nước theo giá hiện hành đạt 484 nghìn đồng, tăng 36% so với năm 2001 - 2002. Trong thời kỳ 2002 - 2004 thu nhập bình quân 1 người 1 tháng theo giá hiện hành tăng bình quân 16,6%, cao hơn mức tăng 6% mỗi năm của thời kỳ 1999 - 2001 và mức tăng 8,8% của mỗi năm thời kỳ 1996 - 1999. Nguyên nhân chủ yếu làm tăng thu nhập của năm 2003 - 2004 là do: Đầu năm 2003, Nhà nước điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu của khu vực hành chính, sự nghiệp và của khu vực doanh nghiệp nhà nước, do đó tiền công thuê ngòai xã hội cũng tăng; sản lượng cây trồng, đặc biệt sản lượng lúa tăng; Giá nông sản, thủy sản như thóc, cà phê, cao su, điều, lợn hơi, tôm, cá đều tăng so các thời kỳ trước.
Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì thu nhập thực tế thời kỳ 2002 - 2004 tăng 11%, cao hơn mức tăng thu nhập thực tế 5,8% của thời kỳ 1999 - 2001 và mức tăng 4,6% của thời kỳ 1996 - 1999.
Thu nhập ở khu vực thành thị và nông thôn đều tăng. Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng ở khu vực thành thị đạt 795 nghìn đồng, tăng 27,8%, khu vực nông thôn đạt 377 nghìn đồng, tang 36,9% so với năm 2001 - 2002 và tăng nhanh hơn khu vực thành thị. Tuy nhiên thu nhập của hộ gia đình thành thị vẫn cao hơn nông thôn. Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 1999; 2001 - 2002; 2003 - 2004 của khu vực nông thôn là 2,30; 2,26 và 2,11 lần tương ứng các năm và có xu hướng thu hẹp dần.
Theo giá hiện hành, năm 2003-2004, thu nhập bình quân 1 người 1 tháng của các vùng đều tăng khá so với 2001-2002 nhưng cũng có sự khác biệt đángkể: 4 vùng có tốc độ tăng nhanh hơn mức bình quân chung của cả nước là Đồng bằng sông Hồng (+38%); Đông Bắc (+42,5%), Tây Bắc (+37,1%); riêng Tây Nguyên tăng cao nhất trong các vùng (+60,1%) do giá cà phê và một số hàng nông sản tăng khá so với năm 2002 và do tác động của các chính sách của Nhà nước đối với vùng Tây Nguyên, đặc biệt việc giải quyết đất sản xuất cho đồng bào dân tộc tại chỗ, Nhà nước cấp nhà ở, cấp vật liệu làm nhà, bao cấp về y tế, giáo dục. Tuy nhiên, thu nhập giữa các vùng có sự chênh lệch. Vùng có thu nhập bình quân đầu người cao nhất là Đông Nam Bộ gấp 3,04 lần vùng có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất là Tây Bắc, tỷ lệ này của năm 2001 - 2002 là 2,5 lần.
Do có thu nhập bình quân đầu người tiếp tục tăng khá, đời sống các tầng lớp dân cư ở các vùng, đặc biệt tầng lớp nghèo tiếp tục được cải thiện nên số hộ nghèo tiếp tục giảm.
2. Về chi tiêu của dân cư
Tính chung cả nước chi tiêu cho đời sống năm 2003 - 2004 bình quân 1 người 1 tháng theo giá hiện hành đạt 370 nghìn đồng, tăng 37,5% so với năm 2001 - 2002 bình quân mỗi năm tăng 17,2%, cao hơn thời kỳ 1999 - 2003 (+10,3%) và thời kỳ 1996 - 1999 (6,6%). Nếu tính theo giá so sánh, năm 2002 là gốc chi tiêu thực tế năm 2003 - 2004 đạt 328 nghìn đồng, tăng 12,1%. ở các vùng, chi tiêu cho đời sống bình quân 1 người 1 tháng tăng khá so với năm 2001 - 2002.
Mức sống tiếp tục có chuyển biến tích cực thông qua số liệu chi tiêu cho đời sống. Theo chuẩn nghèo chung của Ngân hàng Thế giới, gồm chi tiêu cho các mặt lương thực, thực phẩm và phi lương thực thực phẩm (tức là chuẩn nghèo chung cao hơn chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm của Tổng cục Thống kê) và tính theo số liệu chi tiêu của Khảo sát mức sống hộ gia đình 2004 thì tỷ lệ nghèo chung của cả nước giảm từ 28,9% năm 2001 - 2002 xuống còn 24,1% năm 2003 - 2004.
3. Sự chênh lệch thu nhập và phân hóa giầu nghèo trong dân cư
Kết quả sơ bộ Khảo sát mức sống 2004 cho thấy hệ số chênh lệch về thu nhập bình quân 1 người 1 tháng giữa nhóm hộ giàu nhất và nhóm hộ nghèo nhất trong thời kỳ 2003 - 2004 tăng so với năm trước.
So sánh 10% số hộ có mức thu nhập cao nhất với 10% số hộ có mức thu nhập thấp nhất thì hệ số chênh lệch năm 2003 - 2004 là 13, 5lần (hệ số này năm 1996: 10,6 lần; 1999: 12 lần; năm 2001 - 2002: 12,5 lần). Một số vùng có hệ số này ở mức cao gồm Đông Nam Bộ 14,4 lần (lớn hơn mức bình quân chung cả nước), Đồng bằng sông Hồng 11,3 lần; Đông Bắc 10,4 lần; Tây Nguyên 12,5 lần, Đồng bằng sông Cửu Long 10,5 lần.
Chênh lệch thu nhập và phân hóa giàu nghèo trong dân cư còn được nhận biết qua hệ số GINI bằng 0 là không có sự chênh lệch. Hệ số GINI càng tiến dần đến 1 sự chênh lệch càng tăng, và bằng 1 khi có sự chênh lệch tuyệt đối.
Kết quả sơ bộ Khảo sát mức sống hộ gia đình 2004 cho thấy hệ số GINI về thu nhập tính chung cả nước trong năm 2003 - 2004 là 0,413 tăng hơn năm 1999 và giảm không đáng kể so với năm 2001 - 2002. Hệ số này năm 1999 là 0,390; năm 2001 - 2002 là 0,42. Như vậy, sự bất bình đẳng về thu nhập ở mức rất thấp nhưng vẫn có xu hướng tăng.
Tiêu chuẩn (40%) của Ngân hàng Thế giới đưa ra nhằm đánh giá phân bố thu nhập của dân cư. Tiêu chuẩn này xét tỷ trọng thu nhập của 40% dân số có thu nhập thấp nhất trong tổng thu nhập của toàn bộ dân cư. Tỷ trọng này nhỏ hơn 12% là có sự bất bình đẳng cao về thu nhập, nằm trong khoảng từ 12 - 17% là có sự bất bình đẳng vừa và lớn hơn 17% là có sự tương đối bình đẳng. Tỷ trọng này ở nước ta tính theo số hộ là 18,7% năm 1999; 17,98% năm 2001 - 2002; 17,8% năm 2003 - 2004. Theo tiêu chuẩn này thì Việt Nam có phân bố thu nhập trong dân cư ở mức tương đối bình đẳng nhưng đang có xu hướng tăng lên mức bất bình đẳng vừa.
4. Nhận xét chung
Cùng với tăng trưởng của nền kinh tế và những nỗ lực của Đảng và Chính phủ trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, thu nhập năm 2003 - 2004 của dân cư tăng khá so với năm 2001 - 2002, tỷ lệ nghèo giảm, mức độ phân hóa giàu nghèo cũng có xu hướng giảm. Đời sống của các tầng lớp dân cư có chuyển biến tiến bộ rõ rệt. Theo ý kiến tự đánh giá của 44.068 hộ được điều tra ở 64 tỉnh, thành phố về mức sống gia đình năm 2003 - 2004 so năm 1999 cho thấy 84% hộ trả lời cuộc sống gia đình được cải thiện hơn, 11,2% hộ trả lời như cũ; 4,8% hộ trả lời giảm đi. Điều này khẳng định mặc dù trong năm 2003 - 2004 chúng ta có gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng có đường lối đúng, có biện pháp chỉ đạo hiệu quả của Đảng và chính quyền các cấp nên đời sống dân cư tiếp tục phát triển và ổn định./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 4 (tháng 7+8)/2005
Bài liên quan
- Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
- Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
- Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
- Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
- Về con đường đi tới của Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ và tầm nhìn cho kỷ nguyên mới
Xem nhiều
- 1 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 2 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 3 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 4 Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- 5 Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- 6 Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Xây dựng mô hình tự quản trong phương pháp quản lý lưu học sinh nước ngoài tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Học viện Báo chí và Tuyên truyền là cơ sở đào tạo trong lĩnh vực báo chí, truyền thông và lý luận chính trị có uy tín trên cả nước. Bởi vậy, việc liên kết đào tạo về các lĩnh vực này không chỉ được thực hiện ở các đơn vị đào tạo trong nước mà còn được thực hiện cả ở sự liên kết đào tạo quốc tế. Hàng năm, Học viện đón tiếp một lượng lớn sinh viên quốc tế theo học ở các bậc cử nhân, cao học và nghiên cứu sinh. Do vậy, công tác quản lý sinh viên quốc tế là công tác quan trọng và có tính đặc thù. Công tác này để đạt hiệu quả tốt không chỉ thuộc về phương pháp và trách nhiệm của các đơn vị trong học viện mà còn phụ thuộc vào chính năng lực tự quản của các em. Tuy nhiên, để sự tự quản được thực hiện có chất lượng cần thực hiện trên nguyên tắc: Học viện định hướng – phòng Quản lý Ký túc xá xây dựng phương pháp và giám sát – lưu học sinh tự quản. Với nguyên tắc trên, phòng Quản lý ký túc xá đã thu được những thành công nhất định. Bài viết này trình bày những kinh nghiệm đã thu được trong qua trình xây dựng mô hình tự quản trong tập thể lưu học sinh nước ngoài tại học viện.
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Việt Nam - Cuba là biểu tượng sáng ngời về tình đoàn kết hữu nghị quốc tế. Hai dân tộc đã sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tình hữu nghị đặc biệt này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Fidel Castro vun đắp qua nhiều thế hệ và trở thành một tài sản vô giá của cả hai dân tộc.
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện) là đơn vị sự nghiệp công lập, có chức năng đào tạo đại học, sau đại học các ngành lý luận chính trị, báo chí, truyền thông, kinh tế, xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội…, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ các cấp. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Học viện cần có cơ chế tài chính phù hợp nhằm huy động tối đa nguồn lực tài chính và phân phối, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tạo động lực thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong những năm qua, thực hiện cơ chế tài chính ở Học viện đã có những chuyển biến tích cực, các nguồn thu đảm bảo chi, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Học viện. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu nguồn lực tài chính cho chiến lược phát triển giai đoạn mới của Học viện, công tác thực hiện cơ chế quản lý tài chính cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện.
Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
Trong 33 năm làm việc ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền, tôi có 30 năm gắn bó với Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, cho dù tôi không phải trực tiếp biên chế công tác tại đây.
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác văn hóa, văn nghệ, trong những năm qua, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã quan tâm lãnh đạo công tác này, qua đó đạt được một số kết quả khá quan trọng, đóng góp vào sự phát triển chung về kinh tế - văn hóa - xã hội của Thành phố. Trên cơ sở phân tích thực trạng lãnh đạo công tác văn hóa, văn nghệ của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, bài viết đề xuất một số giải pháp giúp tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy đối với công tác này trong thời gian tới.
Bình luận