Ngành công nghiệp với công tác phòng chống ma túy, mại dâm, HIV/AIDS
Số người nghiện ma túy và nhiễm HIV/AIDS trong cả nước đang ngày càng gia tăng. Ngày càng có nhiều trường hợp người bị phát hiện là CBCNV, giáo viên, học sinh, trong đó có cả những CNVC ngành Công nghiệp. Theo báo cáo chưa đầy đủ, toàn ngành Công nghiệp hiện có 690 người nghiện ma túy (riêng ngành Than và Công ty Xây lắp Điện I đã có tới 300 người), 280 người bị nghi mắc nghiện, 35 người nhiễm HIV, trong đó đã có 5 người chuyển sang giai đoạn AIDS.
Đợt khảo sát mới đây của Ban Chỉ đạo phòng chống ma túy, mại dâm HIV/AIDS - Tổng LĐLĐVN và Công đoàn CNVN (từ ngày 26.4 – 12.5.04) tại một số cơ sở thuộc các ngành Nhựa, Hóa chất, Dệt - may, Bia - rượu - NGK, Thuốc lá đã cho thấy, ma túy đã và đang len lỏi vào tầng lớp CBCNV có thu nhập cao, chứ không chỉ nhằm vào đối tượng vô công rồi nghề, không có công ăn việc làm như trước đây.
- Hiệu quả lớn từ công tác tuyên truyền.
Qua khảo sát tại các doanh nghiệp trong ngành Công nghiệp cho thấy, các doanh nghiệp làm tốt công tác tuyên truyền thì đều đạt những kết quả khả quan. Số người mắc nghiện ma túy tại các doanh nghiệp này hầu hết là những người nghiện nặng, có thâm niên và được phát hiện từ năm 2002 trở về trước, ít có trường hợp nghiện mới, một phần do các doanh nghiệp chặt chẽ ngay từ khâu tuyển người, một phần là do làm tốt công tác tuyên truyền nên CNVNC luôn cảnh giác để không bị mắc vào cạm bẫy nguy hiểm này. Có rất nhiều biện pháp tuyên truyền mà các doanh nghiệp đã áp dụng, mỗi nơi mỗi vẻ, nhưng phổ biến nhất có lẽ vẫn là tuyên truyền qua các phương tiện truyền thông nội bộ, phát tờ rơi và tổ chức các cuộc thi tìm hiểu. Trên loa đài nội bộ, tất cả mọi vấn đề đều được nhắc đến, trong đó có cả phòng chống ma túy, mại dâm, HIV/AIDS. Mới nghe tưởng sẽ nhàm chán, nhưng mưa dầm thấm lâu, người lao động sẽ có những thông tin mà họ cần ngay cả khi làm việc. Còn tờ rơi lại đạt được hiệu quả theo một cách khác. “Khi chúng tôi phát tờ rơi cho CNLĐ với nội dung ngắn gọn, súc tích, hình ảnh bắt mắt, thường thì mọi người đọc xong lại mang về nhà cho gia đình xem, nên từ một người lại nhân ra nhiều người, rất hiệu quả”, bà Tống Thanh Lan - Chủ tịch CĐ Công ty May Thăng Long nói. Với đặc điểm của các cuộc thi tìm hiểu, “do yêu cầu phải viết tay, nên mỗi lần người lao động làm bài thi, những thông tin cơ bản nhất cũng đã được họ đọc và lưu ý, sau đó những thông tin cần thiết được lưu giữ lại để tự bảo vệ mình”, ông Nguyễn Quang Huynh - Chủ tịch CĐ Công ty Cổ phần Bia Thanh Hóa cho biết.
Dù mỗi nơi áp dụng một biện pháp khác nhau, tựu chung lại vẫn đều phải có cái nền cơ bản là sản xuất kinh doanh mạnh, việc làm được đảm bảo ổn định, thu nhập năm sau cao hơn năm trước mới có khả năng tài chính để tổ chức các hoạt động tuyên truyền cho CNLĐ.
2. Những kinh nghiệm hay
Một kinh nghiệm, mà theo Đoàn khảo sát là rất hiệu quả và cần nhân rộng là việc phát phù hiệu có biểu tượng phòng chống HIV/AIDS cho CNLĐ đeo trên ve áo trước khi vào ca tại Công ty May nhà Bè. Việc làm này đã luôn nhắc nhở mỗi người lao động phải có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội trước những hiểm họa về ma túy, HIV/AIDS. Thực tế hơn, những buổi sinh hoạt của Nhà máy Thuốc lá Thanh Hóa, nếu có dịp là ông Lê Hồng Khâm - Chủ tịch CĐ lại kể cho CNLĐ nghe về các tấm gương tày liếp của những gia đình có con bị nghiện dẫn đến nhà tan cửa nát. “Chúng tôi chẳng kể đâu xa, toàn những người trong khu dân cư quanh nhà máy hoặc của tỉnh Thanh Hóa, những người mà CNLĐ đều biết để họ thấy được sự nguy hiểm của ma túy, tự rút kinh nghiệm cho bản thân và gia đình mình”. Ông Khâm còn kể cho chúng tôi nghe về một câu chuyện có thật tại Thanh Hóa vì quá đau khổ, người bố đã phải tiêm một loại thuốc đặc hiệu làm mất trí nhớ của con trai để “thà nhìn nó ngây dại nhưng vô tội còn hơn thấy nó như một con vật mất hết tính người khi lên cơn thèm thuốc”. Đó là câu chuyện đau lòng nhưng có thật -sự thật nghiệt ngã.
Tại Công ty Cổ phần Bia Thanh Hóa, CĐ Công ty còn phối hợp chặt với Công an khu vực để nắm các đối tượng nghiện hút trong khu vực, thông báo cho người lao động biết để cảnh giác và đội bảo vệ của Công ty cũng luôn làm tốt công tác phòng ngừa, bám sát các đối tượng xấu xung quanh địa bàn Công ty, không để người lao động có cơ hội tiếp xúc, tiêm nhiễm những thói xấu của các đối tượng này.
Nhìn chung, vấn đề phòng chống các tệ nạn xã hội luôn được các doanh nghiệp trong ngành quan tâm và đưa vào chương trình nghị sự trong đại hội CNVC hàng năm. Thường thì ngay trong nội qui lao động của các doanh nghiệp đã có các qui ước về vấn đề này mà mức xử lý kỷ luật sẽ tùy theo mức độ vi phạm. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là cần xác định rõ cho mỗi người lao động, trước hết phải tự bảo vệ mình, tự lo cho mình và gia đình mình.
3. Kinh phí - Vướng mắc lớn nhất
Một doanh nghiệp đã đi tiên phong trong vấn đề cai nghiện ma túy cho CNLĐ trong ngành Công nghiệp là Công ty Xây lắp Điện I. Sau khi phát hiện 39 CNLĐ mắc nghiện, Công ty đã đứng ra thành lập một trung tâm cai nghiện cho số công nhân này, đem lại kết quả rất khả quan. Ngoài tiền ăn ở, thuốc men tại Trung tâm, mỗi công nhân còn được hưởng nguyên lương trong thời gian cai nghiện và số tiền này, Công ty gửi trực tiếp về gia đình người nghiện coi như họ vẫn đang đi làm xa. Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có thể làm được việc đó. “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền”, nói là đưa vào qui chế, nếu vi phạm nhiều lần sẽ đuổi việc, chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng hầu hết các doanh nghiệp đều không làm như vậy. “Chúng tôi có thể đuổi việc họ lắm chứ, nhưng vứt họ ra ngoài xã hội, bị dồn đến chân tường, họ có thể còn trở nên nguy hiểm hơn cho gia đình và cộng đồng, nên đành chúng tôi vẫn luôn rộng đường tạo cơ hội cho họ hoàn lương”, ông Lê Hồng Khâm chân thành nói. Thường thì sau khi phát hiện người lao động bị nghiện, các doanh nghiệp đều cho tạm nghỉ việc để đi cai, có hỗ trợ kinh phí cai nghiện và một phần tiền lương hoặc giữ nguyên lương. Trường hợp công nhân cai nghiện thành công trở về, doanh nghiệp lại tiếp tục cho làm việc, không hề phân biệt đối xử. Số công nhân tái nghiện vẫn tiếp tục được tạo điều kiện cho nghỉ cai nghiện, tất nhiên chế độ ưu đãi không được như lần đầu. Cho đến nay, chưa có đơn vị nào buộc CNLĐ nghiện thôi việc mà thường là người lao động tự bỏ việc sau khi tái nghiện nhiều lần.
Do đó, vấn đề ở đây là nguồn kinh phí được lấy từ đâu để giải quyết cho những trường hợp này. Với những doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh, sẽ có nhiều cách để có kinh phí hoạt động. Nhưng những doanh nghiệp tầm tầm, chỉ lo đủ công ăn việc làm cho người lao động đã là một nỗ lực lớn thì tìm nguồn kinh phí là việc rất khó khăn. Chưa kể, những hoạt động này phụ thuộc nhiều vào lãnh đạo doanh nghiệp. Nếu lãnh đạo có quan tâm chú ý tới công tác này sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi, còn như chỉ lo sản xuất kinh doanh, không coi trọng những hoạt động đòan thể khác thì kinh phí cho hoạt động đòan thể còn khó khăn hơn nhiều.
Ông Nguyên Văn Nguyên - Chủ tịch CĐ Công ty Nhựa Tiền phong nêu ý kiến: “Nhà nước cần có qui định cụ thể để có thể hợp thức hóa việc chi tiêu cho công tác tuyên truyền phòng chống ma túy, mại dâm HIV/AIDS. Chỉ khi có chế độ, chính sách rõ ràng thì doanh nghiệp mới chủ động trong chi phí và công tác tuyên truyền mới có kết quả”. Còn bà Tôn Thanh Lan - Chủ tịch CĐ May Thăng Long nói: “Chúng tôi rất muốn có nhiều tài liệu, tờ rơi phát cho anh em đọc để biết mà tránh, nhưng với số lượng mấy nghìn công nhân, chúng tôi không thể mua để phát hết cho họ được, kinh phí sẽ hạch toán vào đâu?”.
Vấn đề này, ý kiến của Phó Chủ tịch CĐCNVN, ông Nguyễn Ngọc Chiến là: “Cơ chế tài chính cho doanh nghiệp là rất quan trọng. CĐCN sẽ phát động phong trào xây dựng quĩ phòng chống ma túy, mại dâm, HIV/AIDS. 6 tháng cuối năm sẽ phối hợp với Ban Chỉ đạo của Bộ Công nghiệp triển khai công tác này đến các giám đốc doanh nghiệp”.
Hy vọng rằng, với những biện pháp hiệu quả trong thời gian qua và những động thái tích cực trong thời gian tới, ngành Công nghiệp sẽ đi tiên phong trong lĩnh vực phòng chống ma túy, mại dâm, HIV/AIDS, làm trong sạch đội ngũ CNVCLĐ của Ngành, chuẩn bị tốt nhất nguồn nhân lực, đảm bảo đủ sức khỏe và tri thức cho hội nhập và phát triển./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 4 (tháng 7+8)/2005
Bài liên quan
- Đặc điểm hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội của thế hệ Z tại Việt Nam
- Xây dựng đội ngũ nữ trí thức thành phố Hải Phòng trong kỷ nguyên mới
- Truyền thông về sản phẩm OCOP trên báo mạng điện tử địa phương vùng Trung du Bắc Bộ
- Quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan hành chính nhà nước Thành phố Hà Nội trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
- Short video trong xây dựng thương hiệu YouTube của cơ quan báo chí hiện nay: Vai trò, vấn đề đặt ra và một số giải pháp
Xem nhiều
-
1
Thực hành tiết kiệm
-
2
Video Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền lần thứ XII, nhiệm kỳ 2025-2030
-
3
Sự dịch chuyển của thương hiệu Việt trong ngành thực phẩm và đồ uống (F&B) Việt Nam
-
4
Tổ chức thành công đại hội các cấp của Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: đoàn kết, dân chủ, gương mẫu, trí tuệ, hiệu quả
-
5
Giải pháp thúc đẩy tác động của ứng dụng yếu tố văn hoá trong chương trình âm nhạc đối với hành vi tiếp nhận nội dung của giới trẻ Việt Nam trên các phương tiện truyền thông
-
6
Truyền thông về Môi trường - Xã hội và Quản trị (ESG) của các tập đoàn lớn tại Việt Nam hiện nay: Cơ hội và thách thức
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Hải Phòng trong phát triển kinh tế biển
Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hải Phòng, công tác phát triển kinh tế biển đã đạt được những kết quả ấn tượng. Trên cơ sở đó, góp phần tăng trưởng bền vững, tạo việc làm, thúc đẩy xuất khẩu, bảo đảm an ninh quốc phòng và khai thác hiệu quả tiềm năng biển đảo… của Thành phố. Bài viết làm rõ thực trạng lãnh đạo phát triển kinh tế biển của Thành ủy Hải Phòng, chỉ rõ một số hạn chế, bất cập; từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Hải Phòng trong phát triển kinh tế biển thời gian tới.
Đặc điểm hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội của thế hệ Z tại Việt Nam
Đặc điểm hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội của thế hệ Z tại Việt Nam
Trong bối cảnh mạng xã hội ngày càng trở thành kênh tiếp cận thông tin phổ biến, nghiên cứu này tập trung phân tích hành vi tiêu thụ tin tức của thế hệ Z tại Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ một cuộc khảo sát do tác giả thực hiện vào tháng 8/2024, trong khuôn khổ thực hiện luận án Tiến sĩ với đề tài “Nghiên cứu hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội của thế hệ Z tại Việt Nam”. Khảo sát được tiến hành với 1.224 thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 15 đến 21. Kết quả cho thấy, 97,2% người tham gia lựa chọn mạng xã hội là nguồn tin tức chính. Trong đó, các nền tảng được sử dụng phổ biến nhất gồm Facebook, TikTok và YouTube. Các chủ đề tin tức thu hút sự quan tâm nhiều nhất là giải trí, xã hội và kinh tế. Hơn 68% người được hỏi tích cực tham gia các hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội như đọc, chia sẻ và thảo luận; khoảng 61% chủ động kiểm tra nguồn tin khi tiêu thụ. Đáng chú ý, 80% số người tham gia nhận thức được rằng mạng xã hội sử dụng thuật toán để cá nhân hóa nội dung, nhưng phần lớn (68,9%) có đánh giá tiêu cực, đặc biệt là lo ngại về quyền riêng tư và thiên lệch nội dung dẫn đến nguy cơ tạo thành "bong bóng thông tin". Nghiên cứu cũng cho thấy mức độ nhận thức và hành vi tiêu thụ tin tức có xu hướng tăng dần theo độ tuổi. Các kết quả đã gợi mở về nhu cầu giáo dục kiến thức truyền thông số cho nhóm công chúng này và đặt ra vấn đề về trách nhiệm của nền tảng trong điều chỉnh thuật toán nhằm tạo môi trường truyền thông tin tức hiệu quả và bền vững.
Xây dựng đội ngũ nữ trí thức thành phố Hải Phòng trong kỷ nguyên mới
Xây dựng đội ngũ nữ trí thức thành phố Hải Phòng trong kỷ nguyên mới
Nghiên cứu khái quát thực trạng đội ngũ nữ trí thức thành phố Hải Phòng giai đoạn 2008–2025, làm rõ những thành tựu nổi bật, đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế, trên cơ sở đó, đề xuất một hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm xây dựng đội ngũ nữ trí thức Hải Phòng trong thời kỳ chuyển đổi số, hội nhập sâu rộng và phát triển kinh tế tri thức, đóng góp thiết thực vào việc nâng cao nguồn lực con người, phát huy vai trò của phụ nữ Hải Phòng trong kỷ nguyên mới 2025–2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Truyền thông về sản phẩm OCOP trên báo mạng điện tử địa phương vùng Trung du Bắc Bộ
Truyền thông về sản phẩm OCOP trên báo mạng điện tử địa phương vùng Trung du Bắc Bộ
Trong những năm gần đây, chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn theo hướng bền vững, gắn với phát huy giá trị bản địa và nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm nông nghiệp. Trong quá trình đó, báo chí -truyền thông đặc biệt là báo mạng điện tử địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá hình ảnh, khơi dậy niềm tin người tiêu dùng, đồng thời kết nối sản phẩm OCOP với thị trường. Tại các tỉnh vùng Trung du Bắc Bộ - nơi có tiềm năng phong phú về đặc sản nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ, hệ thống báo mạng địa phương đã có nhiều nỗ lực đưa thông tin về sản phẩm OCOP đến với công chúng. Tuy nhiên, hoạt động truyền thông này vẫn còn phân tán, thiếu chiều sâu và chưa khai thác hiệu quả các thế mạnh của báo điện tử trong tích hợp đa phương tiện, tương tác hai chiều. Bài viết phân tích thực trạng truyền thông về sản phẩm OCOP trên báo mạng điện tử địa phương các tỉnh vùng Trung du Bắc Bộ, chỉ ra những mặt đạt được, những hạn chế còn tồn tại và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng truyền thông, góp phần đưa sản phẩm OCOP thực sự trở thành thương hiệu nông thôn mới.
Quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan hành chính nhà nước Thành phố Hà Nội trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan hành chính nhà nước Thành phố Hà Nội trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh truyền thông số phát triển mạnh mẽ và nhu cầu tiếp cận thông tin của người dân ngày càng cao, việc quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan hành chính nhà nước (HCNN) trở thành một nhiệm vụ cấp thiết nhằm bảo đảm tính chính xác, kịp thời và định hướng dư luận xã hội hiệu quả. Tại Thủ đô Hà Nội - trung tâm chính trị, hành chính của cả nước, hoạt động phát ngôn diễn ra với mật độ cao, liên quan đến nhiều lĩnh vực nhạy cảm và được báo chí, đặc biệt là báo mạng điện tử (BMĐT), cập nhật liên tục. Trên thực tế, các BMĐT đang giữ vai trò cầu nối quan trọng giữa cơ quan công quyền và công chúng trong truyền thông chính sách, nhưng cũng đối mặt với không ít thách thức: từ áp lực thời gian, tính xác thực của nguồn tin, đến yêu cầu về cách thể hiện thông tin thân thiện, dễ hiểu. Bài viết này tập trung phân tích thực trạng quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan HCNN thành phố Hà Nội trên BMĐT hiện nay, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế còn tồn tại, đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị thông tin trong thời đại số, nhằm hướng tới nền hành chính minh bạch, hiện đại và phục vụ.
Bình luận