Phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị
Coi trọng việc xây dựng môi trường dân chủ đi đôi với đề cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân
Nghiên cứu lý luận chính trị là lĩnh vực có vai trò rất quan trọng, làm cơ sở lý luận, khoa học cho công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Để đẩy mạnh nghiên cứu lý luận chính trị, Đảng ta đã coi trọng việc phát huy, thực hành dân chủ, tự do sáng tạo trong nghiên cứu. Trong nhận thức về phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận, Đảng ta quan niệm một cách biện chứng, toàn diện. Dân chủ phải đi liền với kỷ cương, kỷ luật, gắn với trách nhiệm của người nghiên cứu trước Đảng, trước dân tộc. “Coi trọng việc xây dựng môi trường dân chủ đi đôi với nêu cao trách nhiệm chính trị của tổ chức và cá nhân hoạt động lý luận”(1). Tự do tư tưởng trong nghiên cứu, khám phá sáng tạo trong lý luận đồng thời phải giữ nghiêm kỷ cương trong việc phổ biến kết quả nghiên cứu. Nghiên cứu “không có vùng cấm” nhưng việc giảng dạy, tuyên truyền lý luận phải theo quy định của Đảng và Nhà nước.
Để tăng cường và phát huy dân chủ trong công tác lý luận, trong những năm qua Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết như Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX, Nghị quyết Trung ương 5 khóa X. Đặc biệt, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Quy định số 285-QĐ/TW ngày 25.4.2015 về “Dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trong các cơ quan đảng, nhà nước”. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI đã yêu cầu phải “tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận. Khẩn trương ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị”(2).
Việc thực hiện các nghị quyết của Đảng đã góp phần phát huy dân chủ, nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận, chính trị, “việc phát huy dân chủ, tự do sáng tạo trong nghiên cứu lý luận được coi trọng”(3); đã có những chuyển biến nhất định, đã tạo môi trường thuận lợi hơn cho các tổ chức và cá nhân nhà nước nghiên cứu phát huy năng lực nghiên cứu. Các quan điểm nghiên cứu riêng được tôn trọng, bảo vệ. Nhiều cấp ủy đã coi trọng việc xây dựng môi trường dân chủ đi đôi với đề cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động nghiên cứu lý luận chính trị, tạo được bầu không khí dân chủ, cởi mở trong sinh hoạt lý luận chính trị; thực hiện nghiêm túc các quy định về phát ngôn trong Đảng và ngoài xã hội.
“Coi trọng việc xây dựng môi trường dân chủ đi đôi với nêu cao trách nhiệm chính trị của tổ chức và cá nhân hoạt động lý luận”.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, ưu điểm nêu trên, “việc phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị còn một số mặt hạn chế, bất cập”(4); như chưa xây dựng được Quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị để làm cơ sở cho phát huy dân chủ. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trên đây có nhiều, trong đó có phần trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, có phần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lý luận. Một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ lãnh đạo chưa thực sự coi trọng lý luận và nghiên cứu lý luận, chưa coi lý luận là yêu cầu thiết thân đối với công tác lãnh đạo của Đảng. Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều còn chi phối trong không ít cán bộ lãnh đạo các cấp. Nhiều cán bộ lãnh đạo được đi học cao cấp lý luận chính trị, nhưng đôi khi chỉ với động cơ để “hoàn thiện” đầy đủ bằng cấp, là điều kiện cho quy hoạch hoặc bổ nhiệm vào các chức danh lãnh đạo, quản lý.
Đội ngũ cán bộ lý luận trong những năm qua có tăng lên về số lượng nhưng chất lượng còn nhiều hạn chế, chưa đồng đều; thiếu các chuyên gia đầu ngành, các “cây đa cây đề”, chưa đáp ứng được yêu cầu tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận; khả năng vận dụng các công trình nghiên cứu vào thực tiễn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy tốt kết quả nghiên cứu; nhiều sản phẩm nghiên cứu của các chương trình, đề tài khoa học còn chưa mạnh dạn đề xuất cái mới, còn e ngại, ít có giải pháp đột phá.
Trong nghiên cứu lý luận còn dừng lại ở những vấn đề chung, những nguyên tắc, nguyên lý, chưa đi sâu vào những vấn đề gay cấn của thực tiễn, còn né tránh sự thật, nhất là những sự thật gai góc, yếu kém, khuyết điểm, lảng tránh những vấn đề “nhạy cảm” sợ đụng chạm. Vì vậy, nhiều vấn đề nghiên cứu chưa đến nơi đến chốn, không triệt để. Trong nghiên cứu lý luận vẫn còn tình trạng chưa mạnh dạn, thiếu bản lĩnh, chưa nói đã sợ sai, vẫn còn khuôn sáo trong những lý luận đã có, trong sách vở, trong nghị quyết… Nhiều kết quả nghiên cứu lý luận được nghiệm thu đánh giá xuất sắc, công phu, khả thi, song, do thiếu cơ chế sử dụng nên không được chuyển tới các cơ quan có chức năng phù hợp để nghiên cứu ứng dụng. Vẫn còn tình trạng quy chụp về tư tưởng, quan điểm, áp đặt ý kiến cá nhân; việc tổ chức đối thoại lý luận, nhất là với những người có ý kiến khác hoặc trái chiều chưa nhiều; còn thiếu cơ chế bảo vệ những người nghiên cứu có tư duy đổi mới, dám nói, dám đột phá; thiếu chế tài ràng buộc, xử lý vi phạm quyền dân chủ trong nghiên cứu lý luận…
Giữ vững kỷ luật, kỷ cương, nguyên tắc trong nghiên cứu
Đại hội Đảng lần thứ XIII mở ra một giai đoạn phát triển mới của đất nước với những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ của Đảng. Do đó, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy lý luận, có quyết tâm chính trị cao, đẩy mạnh và nâng cao hơn chất lượng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, phát huy mạnh mẽ dân chủ trong công tác lý luận, huy động sức sáng tạo của đông đảo đội ngũ cán bộ lý luận và cán bộ thực tiễn, tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận đặt ra, tháo gỡ các điểm nghẽn của thực tiễn, đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững trong một thế giới đầy biến động phức tạp, nhanh chóng, khó lường.
Xuất phát từ tình hình thực tế, để phát huy tốt dân chủ trong nghiên cứu lý luận, cần nhận thức và giải quyết đúng đắn một số vấn đề dưới dạng các mối quan hệ có ý nghĩa phương pháp luận như sau:
Một là, quan hệ giữa kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cách tốt nhất để bảo vệ một học thuyết khoa học là phải phát triển sáng tạo nó cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Bảo vệ bằng cách phát triển, thông qua sự phát triển là cách tốt nhất để bảo vệ một học thuyết khoa học và cách mạng như chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngày nay, sự biến đổi của tình hình thế giới và trong nước cũng đặt ra nhiều thách thức cho việc kiên định và sáng tạo, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi những người nghiên cứu lý luận chính trị ở nước ta phải nhận thức sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm thật vững tinh túy của các luận điểm kinh điển Mác - Lênin, phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực tư duy lý luận sáng tạo, nắm vững phương pháp tư duy biện chứng, thường xuyên bám sát sự biến đổi cụ thể của tình hình thực tiễn trong nước và thế giới.
Hai là, quan hệ giữa lý luận và chính trị.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta nhận thức và giải quyết vấn đề này ngày càng cởi mở, dân chủ hơn, khắc phục tình trạng đồng nhất giữa lý luận và chính trị dẫn đến quy chụp không đúng quan điểm chính trị của nhà khoa học. Đảng ta chủ trương xây dựng môi trường dân chủ trong nghiên cứu lý luận, tạo nhiều cơ hội cho nhà khoa học tiếp cận thông tin, khuyến khích các nhà khoa học bày tỏ suy nghĩ độc lập, chính kiến khoa học, ý kiến khác nhau trong tranh luận khoa học được tôn trọng và bảo lưu. Nhiều luận điểm khoa học qua nghiên cứu đã được ghi nhận, trở thành cơ sở cho việc hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Tình trạng lý luận đơn thuần chạy theo minh họa cho đường lối chính trị đã từng bước được khắc phục.
Cần nhận thức rõ, việc lý luận đi sâu phân tích, thuyết minh làm rõ cơ sở khoa học của đường lối chính trị là cần thiết. Nếu biến lý luận thành người chỉ chạy theo minh họa cho chính trị là hạ thấp lý luận, đánh mất chức năng khám phá, sáng tạo của lý luận. Lý luận có nhiệm vụ cao quý là soi đường cho thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho đường lối chính trị, các quyết sách chính trị của Đảng. Do đó, lý luận gắn bó mật thiết với chính trị.
Lý luận có nhiệm vụ cao quý là soi đường cho thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho đường lối chính trị, các quyết sách chính trị của Đảng.
Ba là, quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Đây là mối quan hệ cơ bản, lớn của nghiên cứu lý luận chính trị. Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận, là tiêu chuẩn của chân lý. Do đó nghiên cứu lý luận chính trị, việc thực hành dân chủ trong nghiên cứu phải lấy thực tiễn là điểm xuất phát và điểm đến của lý luận, phải phù hợp với sự biến đổi của thực tiễn, phải chú ý đến lợi ích thực tiễn, hiệu quả thực tiễn. Thực tiễn là tiêu chuẩn cao nhất của nghiên cứu lý luận, phải quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể trong nghiên cứu.
Bốn là, quan hệ giữa thực hành dân chủ với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, nguyên tắc trong nghiên cứu
Việc phát huy, thực hành dân chủ sao cho không dẫn đến phủ nhận, hạ thấp những nguyên lý cơ bản, nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm “bốc hơi” các nguyên lý lý luận. Phải giữ vững kỷ luật phát ngôn trong nghiên cứu, trình bày lý luận, khi công bố các kết quả nghiên cứu phải theo quy định của Đảng, Nhà nước, đề cao trách nhiệm chính trị của cá nhân trước Đảng, Nhà nước, trước tổ chức...
Một số định hướng giải pháp khoa học, thực tiễn, sáng tạo và hiện đại
Thứ nhất, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với công tác nghiên cứu lý luận.
Như Nghị quyết số 37-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XI đã khẳng định: “Các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải quan tâm đặc biệt đến công tác lý luận, tổng kết thực tiễn”. Đảng phải coi công tác lý luận là công việc thiết thân của mình không kém gì nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, không quan tâm đến công tác lý luận, đặc biệt lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng, lý luận về đổi mới, không nghiên cứu, bổ sung phát triển lý luận của Đảng thì không thể khắc phục tình trạng chậm trễ của lý luận như trong nhiều nghị quyết Đảng ta đã nhận định. Nếu công tác lý luận được quan tâm đẩy mạnh, nâng cao chất lượng thực sự sẽ tạo tiềm lực lâu dài, sức mạnh nội sinh của Đảng; phải coi xây dựng Đảng về lý luận là một nhiệm vụ quan trọng của xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng.
Thứ hai, xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận, các chuyên gia đầu ngành; nâng cao trình độ, năng lực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn.
Báo cáo Chính trị tại Đại hội XIII khẳng định cần “đầu tư thích đáng cho việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận; có chế độ chính sách thỏa đáng nhằm thu hút, trọng dụng các chuyên gia đầu ngành”; cần phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo những người có năng khiếu lý luận, có năng lực tư duy sáng tạo, say mê nghiên cứu lý luận. Cần có chiến lược đào tạo cán bộ lý luận, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận một cách toàn diện cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung. Đồng thời, cần có cơ chế bảo vệ những cán bộ khoa học dám đột phá sáng tạo. Các chế độ, chính sách đối với nhà khoa học cần hướng họ đi sâu vào chuyên môn để trở thành những chuyên gia lý luận giỏi. Cần khắc phục tình trạng lười học, ngại học lý luận chính trị, hoặc học để đối phó, để cho có bằng cấp. Cần đổi mới căn bản công tác đào tạo cán bộ lý luận chính trị từ khâu quy hoạch, chương trình, nội dung, phương pháp theo tinh thần “khoa học, thực tiễn, sáng tạo và hiện đại” nhằm hình thành và phát triển đội ngũ chuyên gia giỏi, đội ngũ cán bộ đầu ngành, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ lý luận cao, giàu khả năng tư duy sáng tạo nhằm phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới, đáp ứng cả yêu cầu trước mắt và lâu dài.
Thứ ba, gắn kết tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận, định hướng chính sách.
Việc phát triển lý luận, thực hành dân chủ trong nghiên cứu lý luận suy cho cùngcũng phải dựa trên tổng kết thực tiễn để đánh giá. Chỉ có bằng tổng kết thực tiễn và qua tổng kết thực tiễn mới có thể phát triển lý luận, mới có sáng tạo về lý luận, đột phá lý luận. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng những bế tắc của lý luận phải tìm lời giải đáp từ trong thực tiễn sinh động.
Cần tìm ra cơ chế kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, coi trọng việc tư vấn chính sách trong cơ chế kết hợp này. Cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa tổ chức nghiên cứu lý luận với tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, tổ chức hoạch định chính sách và thực thi chính sách. Xây dựng cơ chế để các nhà lý luận được tham gia thường xuyên vào quá trình tổ chức thực tiễn, tổ chức thực hiện nghị quyết - một khâu yếu hiện nay như nhiều nghị quyết vẫn đề cập đến.
Thứ tư, phát huy mạnh mẽ dân chủ, khuyến khích tìm tòi sáng tạo trong nghiên cứu lý luận.
Đây là một chủ trương đã được khẳng định trong nhiều nghị quyết của Đảng ta. Mới đây, trong Báo cáo Chính trị của Đại hội XIII khẳng định: “Thực hiện nghiêm Quy định dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị, tạo môi trường dân chủ, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của các tổ chức và cá nhân”. Quy định số 285-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XI về Dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước” chỉ rõ: “Dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị là bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các tổ chức và cá nhân được tự do sáng tạo, độc lập suy nghĩ, kiến nghị, được tôn trọng, tiếp thu ý kiến, vận dụng, sử dụng kết quả nghiên cứu trong các hoạt động nghiên cứu lý luận chính trị, phù hợp với pháp luật hiện hành”. Mặc dù quy định mới giới hạn nghiên cứu lý luận chính trị trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, song đây là một bước tiến trong nhận thức của Đảng, tạo cơ sở chính trị quan trọng để phát huy dân chủ, tính sáng tạo, độc lập suy nghĩ trong nghiên cứu lý luận chính trị để đóng góp vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Thứ năm, tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận.
Cần xây dựng quy hoạch tổng thể các cơ quan lý luận, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy, biên chế với chế độ, chính sách đi kèm, mối quan hệ phối hợp.
Cần tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về lý luận theo hướng đa dạng hóa các hình thức hợp tác và các tổ chức hợp tác, nâng cao hiệu quả hợp tác để tiếp cận, mở rộng tầm nhìn, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học của văn minh nhân loại, tăng cường nghiên cứu các trào lưu tư tưởng, các lý thuyết mới trên quan điểm khách quan và biện chứng, qua đó làm phong phú hơn tri thức của giới lý luận nước nhà./.
_______________________________
Bài đăng trên Tạp chí Tuyên giáo điện tử ngày 19.03.2021
(1) (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 9/10/2014 của Bộ Chính trị về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030, H, 2014
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.256.
GS,TS Lê Hữu Nghĩa
Nguồn: http://www.tuyengiao.vn
Bài liên quan
- Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
- Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
- Tư duy hệ thống về cải cách hành chính trong bối cảnh chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
- Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Nhân sinh quan Phật giáo với việc xây dựng lối sống cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
5
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
6
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Tỉnh ủy Quảng Ninh lãnh đạo công tác báo chí - truyền thông hiện nay
Quảng Ninh là tỉnh tiên phong trong cả nước thực hiện hợp nhất các cơ quan báo chí - truyền thông địa phương, hình thành Trung tâm Truyền thông tỉnh Quảng Ninh - mô hình hợp nhất cấp tỉnh đầu tiên và mang tính đột phá trong lịch sử báo chí địa phương. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Tỉnh ủy, Trung tâm đã nhanh chóng phát huy hiệu quả, thích ứng linh hoạt với yêu cầu phát triển mới, góp phần nâng cao chất lượng thông tin và hình ảnh của địa phương. Bài viết phân tích thực trạng lãnh đạo công tác báo chí - truyền thông của Tỉnh ủy Quảng Ninh thời gian qua, làm rõ những kết quả nổi bật, chỉ ra hạn chế, bất cập và đề xuất giải pháp nhằm tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo này trong thời gian tới.
Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
Công tác tư tưởng, lý luận luôn là bộ phận cốt lõi trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, yêu cầu đặt ra là phải đổi mới toàn diện công tác tư tưởng, lý luận để vừa giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, vừa thích ứng linh hoạt với sự thay đổi sâu rộng trong xã hội, khoa học – công nghệ và truyền thông.
Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Tỉnh Lạng Sơn, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, giữ vị trí chiến lược trong công tác bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số. Trong thời gian qua, tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Lạng Sơn đã có những đóng góp tích cực vào quá trình quản lý nhà nước về văn hóa DTTS thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phong trào thanh niên và tham gia giám sát chính sách. Những kết quả đạt được bước đầu thể hiện vai trò nhất định của Đoàn trong việc kết nối giữa chính quyền và thanh niên DTTS. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy nhiều hạn chế như thiếu cơ chế phối hợp, chưa được thể chế hóa vai trò, năng lực cán bộ còn bất cập và thiếu nguồn lực bảo đảm hoạt động bền vững. Trên cơ sở phân tích thực trạng, bài viết tập trung làm rõ vai trò của tổ chức Đoàn trong quản lý nhà nước về văn hóa DTTS tại Lạng Sơn, đồng thời đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy hiệu quả hơn nữa vai trò này trong bối cảnh chuyển đổi mô hình quản trị hiện nay, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững văn hóa vùng dân tộc.
Tư duy hệ thống về cải cách hành chính trong bối cảnh chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam
Tư duy hệ thống về cải cách hành chính trong bối cảnh chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam
Từ ngày 1/7/2025, nước ta chính thức vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp ở tất cả 34 tỉnh, thành phố. Sau sắp xếp lại, việc vận hành mô hình mới, cắt giảm cấp trung gian đòi hỏi phải thay đổi tư duy quản trị, áp dụng tư duy hệ thống trong quản lý, điều hành, cải cách hành chính để mô hình chính quyền địa phương hai cấp thực sự mang lại hiệu quả.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứTư và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức diễn ra mạnh mẽ, việc xây dựng lực lượng sản xuất mới trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam. Trong đó, nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò then chốt, quyết định khả năng tiếp thu, ứng dụng và sáng tạo khoa học – công nghệ, thúc đẩy năng suất lao động, đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Bài viết tập trung làm rõ vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay - nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở nước ta.
Bình luận