Phát huy hiệu quả Dự án Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp
Nhiều kết quả tích cực
Mục tiêu của Dự án của là hỗ trợ đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố căn bản của giáo dục nghề nghiệp về cơ chế chính sách; hoạt động đào tạo dựa trên chuẩn năng lực, chuẩn đầu ra; các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo nghề nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động và hội nhập với các quốc gia tiên tiến trong khu vực ASEAN và thế giới. Mục tiêu cụ thể đến năm 2020 là góp phần thực hiện mục tiêu hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp trình độ cao đẳng, trung cấp cho khoảng 1,35 triệu người (trong đó khoảng 5% đạt ở các cấp độ quốc tế, khu vực ASEAN và quốc gia) đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập; Hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các trường nghề theo Quyết định số 761/QĐ-TTg ngày 23 tháng 5 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển trường nghề chất lượng cao đến năm 2020 và khoảng 30 trường chuyên biệt đủ điều kiện để đào tạo cho một số nghề trọng điểm phục vụ phát triển kinh tế biển và các đối tượng là người dân tộc thiểu số học nội trú, người khuyết tật. Đầu tư đồng bộ cho khoảng 100 nghề trọng điểm theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, bảo đảm đủ điều kiện đào tạo nghề nghiệp ở các cấp độ.
Theo số liệu của Tổng cục GDNN, thực hiện Dự án trên, trong giai đoạn 2016 - 2020, ngân sách trung ương đã hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất cho các ngành, nghề trọng điểm tại các trường 4.030 tỷ đồng, chiếm 60% kinh phí đã bố trí cho dự án. Đây là một nguồn lực hỗ trợ rất quan trọng cho các cơ sở GDNN trong bối cảnh nguồn lực tài chính cho lĩnh vực GDNN còn hạn hẹp. Nguồn kinh phí này được đầu tư tập trung, có trọng tâm, trọng điểm, đầu tư trang thiết bị đào tạo cho các ngành, nghề trọng điểm đã được lựa chọn tại các trường. Trong đó, ưu tiên các trường có năng lực đào tạo và tuyển sinh tốt, gần đáp ứng các tiêu chí của trường cao đẳng chất lượng cao được đề xuất hỗ trợ đầu tư, tăng cường năng lực đào tạo để được đánh giá, công nhận trường cao đẳng chất lượng cao; trường ở các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa phương chưa tự cân đối ngân sách...

Đến nay, cả nước có gần 300 trường đã được hỗ trợ kinh phí để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo cho các ngành, nghề trọng điểm từ nguồn kinh phí hỗ trợ của Dự án
Đến nay, cả nước có gần 300 trường đã được hỗ trợ kinh phí để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo cho các ngành, nghề trọng điểm từ nguồn kinh phí nêu trên. Qua đó, cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo của các cơ sở GDNN cơ bản đáp ứng yêu cầu đào tạo, trong đó đối với một số nghề, trên 80% thiết bị được đầu tư tương đối đồng bộ, hoàn chỉnh theo danh mục thiết bị đào tạo, đảm bảo tiên tiến, hiện đại đáp ứng yêu cầu số giờ thực hành, thực tập theo quy định. Nhiều mô hình đào tạo chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế thông qua các chương trình đào tạo chuyển giao đã được hình thành. Tính đến hết năm 2019, các cở sở GDNN đã thực hiện chuyển giao, tiếp nhận và đào tạo thí điểm theo 34 bộ chương trình giáo trình nghề trọng điểm cấp quốc tế từ Úc và Đức với khoảng 2.000 sinh viên trình độ cao đẳng đã được đào tạo, trải nghiệm những kỹ thuật hiện đại nhất của thế giới. Sau khi tốt nghiệp, học sinh, sinh viên được cấp bằng tốt nghiệp cao đẳng của Việt Nam và bằng tốt nghiệp của phía chuyển giao, tạo cơ hội cho người học được xuất khẩu lao động đến những thị trường yêu cầu tay nghề cao như Úc, Đức.
Thông qua các hoạt động khác của dự án đã giúp tăng cường các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo (chương trình, giáo trình, tài liệu, tài nguyên học liệu đào tạo; hệ thống các chuẩn, tiêu chuẩn trong lĩnh vực GDNN). Đội ngũ giáo viên tại các cơ sở GDNN của Việt Nam cũng được chuẩn hóa kỹ năng dạy, thông qua việc đổi mới cấu trúc chương trình GDNN từ tách biệt lý thuyết - thực hành sang đào tạo theo hình thức tích hợp kiến thức chuyên môn, kỹ năng thực hành và thái độ nghề nghiệp. Trong 3 năm (2016-2018), 1.200 giáo viên được đào tạo, bồi dưỡng trong nước về nghiệp vụ sư phạm GDNN; 15.000 giáo viên được đào tạo theo tín chỉ, biên soạn giáo án và tổ chức giảng dạy tích hợp, tổ chức đào tạo và đánh giá theo năng lực thực hiện, kỹ năng mềm; 2.850 lượt cán bộ quản lý GDNN; Đào tạo, bồi dưỡng cho 391 giáo viên tại Úc, Đức để dạy các nghề nhận chuyển giao…Nhờ đó, chất lượng và hiệu quả GDNN có chuyển biến tích cực. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 2019, chỉ số xếp loại chất lượng GDNN trong khu vực ASEAN của Việt Nam đã tăng 13 bậc, đạt 44/100 điểm.
Bên cạnh đó, kỹ năng nghề nghiệp của người tốt nghiệp các cơ sở GDNN cũng đã được nâng lên, nhất là ở các chương trình chất lượng cao, người học vừa có kỹ năng nghề nghiệp giỏi, vừa có kỹ năng ngoại ngữ tốt, đáp ứng yêu cầu về lao động chất lượng cao cho thị trường lao động trong nước và cho thị trường lao động ngoài nước. Hơn 80% người học tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp. Ở một số nghề và một số cơ sở GDNN, tỷ lệ này đạt gần 100%. Tại các kỳ thi tay nghề của thế giới, Việt Nam đã dành những thứ hạng cao, đặc biệt lần đầu tiên đoàn Việt Nam đã giành 1 Huy chương Bạc và được trao 8 Chứng chỉ nghề xuất sắc tại Kỳ thi Tay nghề thế giới năm 2019.
Ngoài ra, việc tăng cường gắn kết với doanh nghiệp trong tổ chức đào tạo, giải quyết việc làm cho học sinh, sinh viên sau tốt nghiệp bước đầu đi vào chiều sâu, hoạt động hiệu quả; cơ chế phối hợp ba bên: Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp bắt đầu hình thành và vận hành khá tốt trong thực tiễn… Các địa phương đã quan tâm đến hoạt động gắn kết với doanh nghiệp; các cơ sở GDNN đã chủ động hơn, thuận lợi hơn khi tìm đến doanh nghiệp; các doanh nghiệp đã tích cực hơn trong việc tiếp cận, tìm đến các nhà trường. Theo kết quả điều tra, khảo sát nhu cầu về đào tạo nghề nghiệp gắn với việc làm (kết quả khảo sát tại 2.735 doanh nghiệp, ở 34 tỉnh/thành phố), doanh nghiệp đang sử dụng 130.120 lao động qua đào tạo các nghề trọng điểm (chiếm 36,6% trong tổng số lao động); nhu cầu trong giai đoạn 2019 - 2021 tăng lên 196.646 người (tăng 51%). Qua đó, có thể thấy nhu cầu của các doanh nghiệp về nguồn nhân lực qua đào tạo của các ngành/nghề trọng điểm hiện nay là rất lớn. Nhiều trường đã khẳng định được thương hiệu về chất lượng trong đào tạo các ngành/nghề trọng điểm đối với các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp rất mong muốn tiếp nhận những học sinh, sinh viên ra trường có thể làm việc được luôn (đáp ứng cả về số lượng và chất lượng) để giảm chi phí đào tạo lại của doanh nghiệp.
Giải pháp tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp
Để phát huy những kết quả đã đạt được, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố căn bản của giáo dục nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động và hội nhập với các quốc gia tiên tiến trong khu vực ASEAN và thế giới, trong thời gian tới, cần huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển GDNN, tăng cường tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDNN, sự tham gia của các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động trong phát triển GDNN. Phát triển hệ thống GDNN với nhiều phương thức và trình độ đào tạo nghề nghiệp, nhất là đào tạo chất lượng cao theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực qua đào tạo cho thị trường lao động. Đồng thời thực hiện quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN theo hướng mở, bảo đảm quy mô, cơ cấu, hợp lý về ngành, nghề, trình độ đào tạo, vùng miền, chuẩn hóa, hiện đại hóa, có phân tầng chất lượng theo hướng: Tầng cơ sở GDNN chất lượng cao được Nhà nước đầu tư trọng điểm; Tầng cơ sở GDNN tự chủ gắn với đặt hàng của Nhà nước và doanh nghiệp; Tầng cơ sở GDNN đặc thù được Nhà nước đầu tư, giao kinh phí hoạt động thường xuyên; tập trung nguồn lực đầu tư một số cơ sở GDNN chất lượng cao, ngành, nghề trọng điểm đã được quy hoạch theo các cấp độ (quốc tế, khu vực ASEAN và quốc gia) và các cơ sở GDNN chuyên ngành, các nhóm đối tượng đặc thù. Khuyến khích thành lập mới cơ sở GDNN tư thục, cơ sở GDNN của doanh nghiệp và có vốn đầu tư nước ngoài.

Cần tiếp tục tăng cường gắn kết giáo dục nghề nghiệp với thị trường lao động và doanh nghiệp
Đặc biệt, cần tăng cường gắn kết giáo dục nghề nghiệp với thị trường lao động và doanh nghiệp; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, khuyến khích doanh nghiệp tham gia hoạt động GDNN. Phát huy vai trò của các đơn vị sử dụng lao động, người sử dụng lao động, hiệp hội nghề nghiệp trong đổi mới, nâng cao chất lượng GDNN. Hình thành mối quan hệ chặt chẽ giữa cơ sở GDNN và các trung tâm dịch vụ việc làm, sàn giao dịch việc làm, hội chợ việc làm nhằm hỗ trợ người học tìm việc làm sau tốt nghiệp. Tạo điều kiện phát triển tinh thần khởi nghiệp trong các cơ sở GDNN..
Đức Tùng
Bài liên quan
- Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
- Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
- Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
- Năng lực ngôn ngữ và vai trò của năng lực ngôn ngữ đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Một số yếu tố tác động đến đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Nhân sinh quan Phật giáo với việc xây dựng lối sống cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
5
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
6
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Nâng cao chất lượng công tác giáo dục phẩm chất chính trị trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho sinh viên chuyên ngành Triết học
Trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch không ngừng tăng cường thực hiện những âm mưu, thủ đoạn nhằm chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, gây mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Do đó, việc giáo dục và rèn luyện phẩm chất chính trị cho thế hệ trẻ trở thành nhiệm vụ cấp thiết. Đặc biệt, với sinh viên chuyên ngành Triết học tại các trường đại học trên địa bàn Hà Nội- những người được học tập, nghiên cứu và được đào tạo chuyên sâu về lý luận sẽ là đội ngũ trực tiếp tham gia và có nhiều đóng góp trong công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy, yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục phẩm chất chính trị cho sinh viên chuyên ngành Triết học càng trở nên có ý nghĩa chiến lược. Bài viết tập trung phân tích thực trạng, chỉ ra những hạn chế, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác giáo dục phẩm chất chính trị, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.
Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
Ngoại giao văn hóa là hình thức sử dụng quyền lực mềm để quốc gia mở rộng ảnh hưởng. Ngày nay, hoạt động này càng hiệu quả nhờ các phương tiện đa dạng. Anime và manga của Nhật Bản đã lan rộng toàn cầu, thu hút đông đảo người hâm mộ, góp phần thúc đẩy sự thấu hiểu và chia sẻ giá trị chung. Việc sử dụng chín nhân vật manga nổi tiếng cùng sự hợp tác với các hãng anime để quảng bá Thế vận hội giúp Nhật Bản lan tỏa tinh thần thể thao và tạo nên mối quan hệ cộng sinh tích cực. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu ngoại giao văn hóa của Nhật Bản qua anime và manga trong quảng bá Thế vận hội Tokyo 2020, đồng thời đưa ra gợi ý về việc ứng dụng công cụ văn hóa trong ngoại giao và thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau qua thể thao.
Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
Bài viết phân tích kỹ năng sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) của giảng viên trong hoạt động giảng dạy, tập trung vào kỹ năng xây dựng câu lệnh điều khiển AI (Prompt Engineering), đồng thời làm rõ thêm tầm quan trọng của việc làm chủ các lệnh (prompt) này trong các hoạt động: tìm kiếm tài liệu, xây dựng học liệu số, đánh giá kết quả bài giảng. Thông qua thực tiễn giảng dạy trong lĩnh vực lý luận chính trị, báo chí truyền thông, bài báo đề xuất các cấu trúc prompt từ cơ bản đến mở rộng, gợi mở một số ví dụ áp dụng trong quá trình giảng dạy, đồng thời, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng AI vào hoạt động giảng dạy ở các cơ sở giáo dục đại học.
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
Lịch sử phát triển sách giáo khoa giáo dục phổ thông Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn cải cách quan trọng, gắn với các mốc thay sách vào các năm: 1957, 1981, 2002, 2020(1). Mới đây, cuối tháng 8 năm 2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 71 về việc rà soát thực hiện chương trình giáo dục phổ thông, đảm bảo cung cấp một bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc. Trước đó, thời điểm Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được ban hành, đã tạo nên những thay đổi lớn đối với nền giáo dục nước nhà, đồng thời đặt ra nhiều thách thức trong công tác quản lý và truyền thông về sách giáo khoa. Trước những biến động về chính sách giáo dục, báo chí Việt Nam có trách nhiệm truyền tải thông tin một cách đầy đủ, chính xác và khách quan, nhằm giúp công chúng nắm bắt được chủ trương của Đảng, đường lối của Nhà nước về vấn đề sách giáo khoa. Trên cơ sở đó, bài viết này tập trung phân tích thực trạng quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay, chỉ ra những vấn đề còn tồn tại và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thông tin ở lĩnh vực này.
Năng lực ngôn ngữ và vai trò của năng lực ngôn ngữ đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Năng lực ngôn ngữ và vai trò của năng lực ngôn ngữ đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng và tiện lợi nhất. Nhưng để giao tiếp có hiệu quả phải cần đến năng lực ngôn ngữ (NLNN). Trong xã hội phát triển như hiện nay, việc mở rộng phạm vi, loại hình, không gian, cách thức giao tiếp là tất yếu, theo đó NLNN càng trở nên quan trọng. Do vậy, việc phát triển NLNN cần phải trở thành điều kiện tiên quyết, nhất là đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện BC&TT). Bài này nói về vai trò của NLNN đối với sinh viên của Học viện trong hoạt động tác nghiệp.
Bình luận