Phát huy tư tưởng chính trị “độc lập, tự chủ, tự cường” của dân tộc trong hội nhập quốc tế hiện nay
1. Về nội dung tư tưởng chính trị “độc lập, tự chủ, tự cường” trong lịch sử
Thiên nhiên không hề dành cho người Việt Nam một cuộc sống dễ dàng, thuận lợi như nhiều dân tộc khác trên trái đất. Khí hậu khắc nghiệt và thiên tai xảy ra thường xuyên. Vận mệnh quốc gia luôn luôn nằm bên bờ của tai họa, hai phần ba thời gian lịch sử phải đương đầu với các thế lực bên ngoài luôn tìm cách thôn tính và đồng hóa. Tất cả đó là hằng số vật chất quan trọng làm nên tính cố kết cộng đồng, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường trong công cuộc đấu tranh để mưu sinh, đấu tranh cho độc lập tự do, bảo vệ và xây dựng đất nước của dân tộc ta.
Trong suốt chiều dài 4.000 năm lịch sử của Việt Nam, về mặt chính trị, ý thức cố kết cộng đồng, tự chủ, tự vươn mình lên trở thành cốt lõi tinh thần để tạo ra sự đoàn kết dân tộc, sức mạnh của dân tộc chống thiên tai địch họa. Những câu chuyện huyền thoại dù thực hư đến đâu thì vẫn là biểu tượng của tính cộng đồng. Nó nhằm ghi tạc một điều cốt tử trong tâm thức truyền thống là: cộng đồng còn thì mình mới còn, cộng đồng mất thì tất cả đều mất theo, kể cả những cái thiêng liêng nhất, như sự khẳng định của một câu thành ngữ: “Nước mất nhà tan”.Vượt qua được những thử thách của thiên tai, địch họa to lớn và liên tục trong lịch sử của mình như trên là nhờ vào tinh thần đoàn kết dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ và tạo được sức mạnh để tự cường dân tộc. Đoàn kết dân tộc, tinh thần độc lập, tự chủ và sức mạnh dân tộc nảy sinh và phát triển trong lịch sử một cách liên tục, trải qua các giai đoạn Văn Lang, Âu Lạc, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt… Việt Nam và trong mỗi thời kỳ nó đều được nâng lên với các tầm vóc mới. Những tinh thần đó đã làm hình thành nên một bản sắc dân tộc độc đáo của Việt Nam nói chung và những nét giá trị chính trị truyền thống Việt Nam nói riêng.
Trong lịch sử nhân loại ít có dân tộc nào phải chịu đựng nhiều thử thách và đã vượt qua được những thử thách khốc liệt đến như thế, và do đó, cũng có thể nói, tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường của con người Việt Nam, trong nền chính trị Việt Nam cũng được tôi luyện và được khẳng định một cách thuyết phục.
Nét nổi bật trong tư tưởng người Việt trong thời kỳ Bắc thuộc là ý thức - tư tưởng về mình và vị trí của mình đối với non nước tổ tiên để lại, tức là ý thức về cộng đồng dân tộc và chủ quyền quốc gia, đất nước. Đó là ý chí muốn dựng lên nhân cách Việt Nam: quyền sống bằng tinh thần, bản sắc của mình trên một lãnh thổ có chủ quyền toàn vẹn của mình.
An Dương Vương lãnh đạo Âu Lạc tiến hành một cuộc chiến tranh giữ nước liên tục trong 10 năm trời đã đánh tan mấy chục vạn quân Tần đến xâm chiếm (năm 218 trước Công nguyên); Hai Bà Trưng khởi nghĩa, 65 huyện thành hưởng ứng đã đuổi được Tô Định, giành lại và tiếp tục thực hiện sự nghiệp mà các vua Hùng đã xây dựng (năm 40-43); Bà Triệu khởi nghĩa ở Cửu Chân, giết chết Thứ sử làm chấn động Giao Châu (năm 248); Lý Bí đã đánh tan quân Lương, giành được độc lập, thành lập nước Vạn Xuân, xưng là Nam Đế, đặt mình ngang hàng với Hoàng đế phương Bắc. Qua những thành công và thất bại của Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, v.v.. mới có được thắng lợi quyết định của Ngô Quyền (năm 938), tạo ra cơ hội xuất hiện kỷ nguyên độc lập lâu dài của nước Đại Việt sau đó. Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại cồ Việt (năm 968); Lê Hoàn đánh thắng quân Tống lập ra triều Tiền Lê (năm 981); Lý Công Uẩn lập triều Lý và năm 1010 dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, v.v.. Đó chính là kết quả của việc phấn đấu theo tư tưởng và đường lối độc lập, tự chủ, tự cường và vươn lên để đứng ngang hàng với phương Bắc, là sự vận dụng sáng tạo mô hình xã hội của phương Bắc vào điều kiện cụ thể của đất nước lúc bấy giờ.
Sang thế kỷ XI, nền chính trị Đại Việt bước vào một thời kỳ hưng thịnh. Với sự xác lập vương triều Lý, tư tưởng chính trị, xã hội phát triển mạnh mẽ và có vị trí quan trọng hàng đầu trong tư tưởng nước ta đương thời. Điều đó phản ánh trình độ nhận thức sâu sắc hào khí dân tộc của cả nước về những vấn đề chính trị nóng hổi và cấp bách xoay quanh nhu cầu củng cố trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp phong kiến. Từ sau Ngô Quyền đến Nguyễn Huệ, phong kiến Trung Quốc thuộc tất cả các triều đại lớn như Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều đem quân xâm chiếm Việt Nam. Với tinh thần độc lập, tự chủ và hào khí tự cường của dân tộc ta, dã tâm xâm lược của chúng đều bị nhân dân ta đánh bại hoàn toàn.
Lý Thái Tổ xây dựng kinh đô Thăng Long (1010) không những để giữ nước mà còn để thực hiện một ý đồ và tư tưởng chính trị lớn lao là xây dựng nước ta thành một quốc gia cường thịnh. Lý Nhân Tông (1027) đến lượt mình cũng huy động toàn dân ra trận, đánh tan quân Tống đến xâm lược lần thứ hai với một ý thức rõ rệt, tinh thần quyết liệt về độc lập, chủ quyền và tự cường đất nước. Tinh thần và hào khí đó vang lên trong áng thơ bất hủ của Lý Thường Kiệt:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.
Đến đời Trần (1225-1400), các vua Trần đã xây dựng được một triều đại cường thịnh, ba lần đánh thắng quân Nguyên - Mông. Tư tưởng chính trị của nhà Trần không những chứa đựng niềm tự hào về chiến thắng oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông mà còn biểu thị nhận thức mới về sự tồn tại, tiền đồ và sức sống trường cửu của dân tộc. Trần Nhân Tông, vị vua anh hùng, một triết gia, một thi sĩ đã thể hiện tư tưởng đó một cách tràn đầy xúc cảm:
Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.
Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã lãnh đạo nhân dân 10 năm trường kỳ chiến đấu (1418-1428), lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo đã buộc giặc phải đầu hàng, giành lại nền độc lập lâu dài cho dân tộc. Tác phẩm Đại cáo bình Ngô, từ các yếu tố văn hóa, lãnh thổ, phong tục tập quán và lịch sử, đã khẳng định Việt Nam là một quốc gia riêng biệt, ngang hàng với phương Bắc về mọi mặt và Việt Nam phải được độc lập. Vì chủ quyền của mình, người Việt Nam đã không quản hy sinh chiến đấu và nếu thế lực nào không tôn trọng chủ quyền đó sẽ gặp phải những kháng cự và trả giá - một nền chính trị từ tư tưởng chính trị độc lập, tự chủ, tự cường được nâng lên giá trị mới, tầm cao mới từ đây:
Như nước, Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Cõi bờ núi sông đã riêng,
Phong tục Bắc Nam cũng khác...
Nguyễn Huệ với triều Tây Sơn (1778-1802) chỉ trong 10 ngày đánh tan hai mươi vạn quân xâm lược của nhà Thanh, xây dựng đất nước thống nhất trước sự rình rập xâm lăng của phương Bắc, quyết tâm bảo vệ nền văn hóa và phong tục của mình. Hịch đánh quân Thanh đã thể hiện hùng hồn tinh thần đó:
Đánh cho để dài tóc,
Đánh cho để đen răng,
Đánh cho nó chích luân bất phản,
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn,
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.
Suốt quá trình giao lưu với Trung Hoa (cưỡng bức và tự nguyện), trong văn hóa Việt Nam nói chung và nền chính trị Việt Nam nói riêng luôn song song tồn tại hai xu hướng trái ngược nhau: Hán hóa và chống Hán hóa. Xu hướng chính trị xuất hiện ngày một rõ rệt là: khôi phục độc lập và xây dựng theo mô hình nhà Hán. Nhưng khuynh hướng trên lại tách thành hai nhánh với những chủ trương khác nhau: thứ nhất là tự trị và lệ thuộc tương đối vào phương Bắc, thứ hai là độc lập và ngang hàng với phương Bắc. Trong tình hình đó, ảnh hưởng của hệ thống quan điểm chính trị - xã hội của người Hán đối với văn hóa và chính trị Việt Nam là khó tránh khỏi. Tuy nhiên, từ bên trong, tư tưởng và tinh thần tự tôn, độc lập, ngang hàng trong văn hóa và chính trị Việt Nam là tư tưởng xuyên suốt, tồn tại bền vững.
Chủ trương tự trị và lệ thuộc tương đối vào phương Bắc, đó là quan điểm của Sĩ Nhiếp (cuối thế kỷ II đến đầu thế kỷ III), Lý Phật Tử (thế kỷ VI), Phùng An (thế kỷ VIII)... Tất cả cuối cùng đều là sự sụp đổ của các cơ nghiệp sau một thời gian ra công xây dựng. Hạn chế cơ bản và sai lầm nghiêm trọng nhất ở đây là tâm lý khuất phục bá quyền. Nguyên nhân sâu xa hơn là người đứng đầu chưa thật gắn bó với nhân dân và còn mơ hồ về sự thống trị của phương Bắc. Về sau, những tư tưởng và thân phận của những kẻ như Trần ích Tắc, Lê Chiêu Thống càng chứng tỏ đó là con đường diệt vong và mất nước. Từ thực tế mất nước đó, lịch sử dân tộc Việt Nam càng khẳng định chân lý sáng ngời của văn hóa chính trị Việt Nam: độc lập, tự chủ, tự cường là con đường duy nhất sống còn và phát triển của dân tộc ta.
Khác với chủ trương phụ thuộc vào bá chủ, nương nhờ vào Trung Hoa là chủ trương độc lập và ngang hàng với phương Bắc. Chủ trương này bắt rễ sâu từ trong nhân dân, vì thế mà nhân dân ta không bao giờ chịu ngừng các cuộc khởi nghĩa ở các quy mô khác nhau. Mỗi lần thất bại là những bài học hun đúc ý chí cho những cuộc khởi nghĩa khác. Truyền thống đó đã dẫn đến khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Bà Triệu. Đó cũng là chủ trương của các anh hùng dân tộc như Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Khúc Thừa Dụ,... rồi đến Ngô Quyền thì không có lực lượng nào có thể ngăn cản được nền độc lập, tự chủ, tự cường của Việt Nam.
Trong nền văn hóa cũng như chính trị Đại Việt thời kỳ phục hồi và xây dựng quốc gia độc lập, tinh thần bất khuất đó đã được giữ vững và phát huy, làm nên những chiến công vang dội trong lịch sử dân tộc. Lý Thường Kiệt kéo quân sang tận đất Thiên triều để tiêu diệt các cơ sở đang chuẩn bị cho việc xâm lược. Trần Quốc Tuấn xem giặc với ta là không đội trời chung: “Chém đầu thần rồi hãy nói chuyện xin hàng”. Trần Bình Trọng khi bị bắt và dụ hàng đã thẳng thừng tuyên bố: “Ta thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”.
Dã tâm biến Việt Nam thành đất đai của Trung Quốc là hết sức dai dẳng, dân tộc ta chỉ có một sự lựa chọn duy nhất, đó là sẵn sàng đương đầu và tìm cách đánh bại dã tâm xâm lược đó, và lịch sử Việt Nam đã thực hiện được sự lựa chọn đúng đắn đó từ thời các vua Hùng cho đến thời đại ngày nay. Tư tưởng chính trị độc lập dân tộc, tự chủ, tự cường được xác lập và ngày càng được xây dựng, hun đúc và thử thách, chúng trở nên bền vững, trở thành những giá trị văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống tiêu biểu.
Rõ ràng, người Việt Nam giữ được độc lập không chỉ bằng ý chí chiến đấu kiên cường mà còn bằng cả một đường lối chiến lược, chỉ đạo sách lược, chiến đấu mưu lược, ngày càng phát triển cao, dựa trên những nguyên tắc nhất quán của nó. Cùng với tinh thần chiến đấu giải phóng dân tộc trong cuộc đấu tranh lâu dài để chống lại sự đồng hóa đã thể hiện rất rõ nét tư tưởng chính trị độc lập, tự chủ, tự cường của dân tộc Việt Nam.
Chính sách đồng hóa của bọn thống trị Hán, Đường là một chính sách nham hiểm bậc nhất được chúng thi hành một cách có hệ thống. Đồng hóa bằng văn hóa: phong tục, tập quán, học thuật, triết lý; đồng hóa bằng sự di dân liên tục, di dân từng đợt lớn, hoặc bằng cách khuyên quan quân ở lại sau khi mãn hạn đi thú. Trong tình trạng đó, trước mắt ông bà ta thời Bắc thuộc, có hai con đường mở rộng dễ dàng: hoặc là cứ để Hán hóa từ từ, đến mức người mình trở thành người họ, còn nước ta thì vĩnh viễn trở thành quận huyện của họ; hoặc là muốn bảo tồn tính dân tộc - ngôn ngữ, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, đạo lý... thì phải lần lượt kéo nhau xuống phương nam, tây nam, tìm cách lập nghiệp ở những thung lũng nhỏ, ở những đồng bằng hẹp, trong núi non, ở đó ít người, nhưng cũng ít điều kiện để lập quốc. Tổ tiên, ông bà chúng ta không chịu theo hai con đường bị động, buông xuôi đó, mà chọn con đường đấu tranh, khó khăn hơn, nhưng cũng danh dự hơn, ấy là con đường bám lấy đất quê hương, bảo vệ dân tộc, giành lại nước nhà. Các thế hệ ông cha ta đã thành công bằng ý chí độc lập, tự chủ, tự cường, làm nên lịch sử vẻ vang.
Người Việt ở trên đất nước mình hàng mấy ngàn năm, trước khi bị đô hộ. Đời này sang đời khác, họ đã đổ mồ hôi và rơi giọt máu để khai phá, cày cấy, bảo vệ những ruộng vườn nhà. Trên đất quê hương đã an nghỉ biết bao thế hệ ông cha của họ. Cuộc sống định cư như đã làm cho con người cắm rễ sâu trong lòng đất, còn sâu hơn là rễ những cây cổ thụ già nhất. Bởi vậy cho nên người Việt, suốt thời kỳ Bắc thuộc, ra sức bám lấy quê hương yêu quý và thiêng liêng của mình, không chịu để bị xua đuổi đi bất cứ nơi nào. Công lao của thế hệ xây dựng cái nôi chung của dân tộc lớn bao nhiêu, thời gian các thế hệ của dân tộc sinh sống trên đất nước này lâu dài bao nhiêu, thì lòng yêu quê hương đất nước đậm đà bấy nhiêu. Yêu nước nên quyết tâm trụ lại trong nước dù nước mất, nhà tan, người bị làm trâu ngựa: còn người, còn đất thì còn ngày tự chủ, độc lập. Người Việt không bỏ đi, mà cứ bám trụ, thì người Hán không thay được và không biết đâm rễ vào đâu. Đi vào làng mạc của người Việt thì như muối bỏ biển, không phải người Hán có thể hóa người Việt thành người Hán, mà qua nhiều đời, người Hán lại bị hóa thành người Việt. Vả lại, người Việt bám đất bám làng, xem đồng ruộng là nồi cơm, là mồ hôi nước mắt, là máu đào của nhiều thế hệ cha ông và của chính mình, thì tự nhiên có tinh thần đề kháng, có tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm, giành lại tự chủ. Và tinh thần chiến đấu để giành lại tự chủ thì trước tiên phải lo bảo tồn cho được những đặc tính của dân tộc mình.
2. Một số giải pháp về phát huy giá trị tư tưởng chính trị “độc lập, tự chủ, tự cường” trong hội nhập quốc tế
Là một xu thế tất yếu, hội nhập quốc tế có sức cuốn hút mạnh mẽ, hàm chứa cả cơ hội lẫn thách thức đối với các quốc gia trên con đường phát triển. Với quan điểm phát huy nội lực, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, Việt Nam nhất quán đường lối chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đi đôi với giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực và sự chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, chúng ta cần kiên quyết đấu tranh, bảo vệ thành quả cách mạng, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả.
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế về chính trị của nước ta trong thời gian qua đã đạt được những thành quả tốt đẹp. Từ một quốc gia hội nhập sau, Việt Nam đã trở thành nhân tố tích cực tham gia tiến trình hội nhập khu vực, chủ động đề xuất các sáng kiến, thúc đẩy các liên kết. Việt Nam cũng tích cực hội nhập sâu rộng vào trật tự kinh tế, chính trị toàn cầu, trở thành thành viên có trách nhiệm và uy tín trong cộng đồng quốc tế. Trước bối cảnh tình hình mới, để giữ vững độc lập, tự chủ trong khi thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi để hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải bảo vệ vững chắc lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước.
Trong bối cảnh đó, cần có các giải pháp phát huy tinh thần “độc lập, tự chủ, tự cường” trong hội nhập quốc tế:
Một là, xác định rõ và luôn kiên định lợi ích quốc gia là mục tiêu cao nhất trong quá trình hội nhập quốc tế. Lợi ích quốc gia là hằng số, mọi vấn đề liên quan đến quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế phải được soi chiếu từ lợi ích quốc gia, dân tộc. Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc là giá trị cốt lõi trong quan hệ quốc tế.
Hai là, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia về chính trị - đối ngoại, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh. Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia là yếu tố quyết định thành công của quá trình hội nhập quốc tế. Đó là sức mạnh được tạo nên từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân tộc, của văn hóa, con người Việt Nam; sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc.
Ba là, thực hiện nhất quán phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế, lấy nguyên tắc của luật pháp quốc tế để xử lý quan hệ đối ngoại. Nước ta là một bộ phận không thể tách rời thế giới, gắn liền với tiến trình phát triển của thế giới. Xa rời sự vận động chung sẽ tự cô lập mình với thế giới bên ngoài và ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Lịch sử cho thấy “nhất biên đảo” hoặc chỉ quan hệ với một vài đối tác là nguồn gốc gây ra mất độc lập, tự chủ vì sẽ dễ bị bó hẹp trong sự lựa chọn, nếu không đủ bản lĩnh và nội lực sẽ dễ trở thành công cụ của quốc gia khác. Đa phương hóa, đa dạng hóa là cách để đan cài lợi ích với các đối tác, qua đó tăng cường vị thế đất nước, giữ vững độc lập, tự chủ quốc gia.
Bốn là, quá trình hội nhập có sự tác động lẫn nhau giữa các nước lớn với nước vừa và nhỏ, giữa các nước có thể chế chính trị - xã hội khác nhau nên sẽ xuất hiện những xung đột về lợi ích hoặc các âm mưu chống phá từ bên ngoài. Vì vậy, việc chủ động phát hiện từ khoảng cách xa về không gian và sớm về thời gian những nguy cơ có thể xảy ra là yêu cầu cấp thiết phải làm để có thể chủ động ngăn chặn, vô hiệu hóa, hóa giải các nguy cơ đó một cách kịp thời, hiệu quả. Tăng cường quản lý hoạt động trên mạng xã hội và Internet, có biện pháp ngăn chặn các thế lực thù địch xâm nhập vào các mạng nội bộ gây thiệt hại về kinh tế, phá hoại tư tưởng. Ngăn chặn việc du nhập các ấn phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài để bảo đảm an ninh văn hóa.
Năm là, nâng cao năng lực dự báo tình hình quốc tế, khu vực phục vụ đắc lực yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế. Cần đổi mới tư duy, nghiên cứu có chiều sâu, nhạy bén bám sát tình hình để có những dự báo xác đáng. Tập trung nghiên cứu những biến động mới của tình hình thế giới, khu vực, những điều chỉnh chiến lược và chính sách của các nước lớn, những mối quan hệ giữa các nước lớn. Nghiên cứu nắm bắt tình hình ở các nước láng giềng, tình hình an ninh khu vực, tình hình biển Đông. Nghiên cứu, đánh giá và xác định đúng đắn quan hệ đối tác, đối tượng trong từng tình huống cụ thể để có những ứng phó phù hợp, hiệu quả.
Sáu là, tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. Đảng ta đã xác định nâng cao bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn hoạt động của Đảng. Đảng chủ trương xây dựng hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tạo chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước; ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng trong Đảng, nhất là cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, cán bộ tham gia hoạt động hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực. Trên cơ sở đó, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, kết hợp thành công sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại./.
______________________________________________
Tài liệu tham khảo:
1. Ngô Sĩ Liên (1972), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, H., T.3.
2. Nguyễn Hồng Phong (hủ biên), (1998), Văn hóa chính trị Việt Nam - truyền thống và hiện đại, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H.,.
3. Hồ Văn Thông (1999), Suy ngẫm về những giá trị trong lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam, Tạp chí Thông tin Chính trị học, số1 (4-6), tr.18.
4. Lê Văn Quán (2006), Lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Việt Nam từ tiền sử đến thời kỳ dựng nước, Nxb.CTQG, H.,.
5. Lê Minh Quân (Chủ biên) (2009), Nhà nước trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, Nxb CTQG, H.,
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 11.2021
Bài liên quan
- Cơ sở hình thành văn hóa từ chức ở Việt Nam hiện nay
- Nâng cao nhận thức của các tổ chức đảng và đảng viên trong xây dựng đảng về đạo đức ở Việt Nam hiện nay
- Những thành tựu lý luận lớn của Đảng qua gần 40 năm đổi mới
- Đảng Cộng sản Việt Nam và niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
- Một số vấn đề về đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng hiện nay
Xem nhiều
- 1 Thông báo tuyển sinh Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, Quan hệ công chúng và Thương hiệu năm 2024
- 2 Chính sách phân quyền của chủ nghĩa tân tự do trong quản lý giáo dục đại học – Kinh nghiệm triển khai tại một số nước và gợi ý đối với Việt Nam
- 3 Báo Quân đội nhân dân trao giải Cuộc thi viết "Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới" lần thứ ba (năm 2023-2024)
- 4 Học viện Báo chí và Tuyên truyền làm việc với đoàn Kiểm tra Cục Quản lý chất lượng, Bộ Giáo dục và Đào tạo
- 5 Học viện tổ chức chúc mừng Tết cổ truyền Bunpimay năm 2024 cho lưu học sinh nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
- 6 Nhiều đóng góp có giá trị vào Đề cương chi tiết Báo cáo Tổng kết 40 năm đổi mới
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Chính sách phân quyền của chủ nghĩa tân tự do trong quản lý giáo dục đại học – Kinh nghiệm triển khai tại một số nước và gợi ý đối với Việt Nam
Chính sách phân quyền là một trong những xu hướng đáng chú ý trong chính sách giáo dục trên toàn thế giới dưới tác động của toàn cầu hóa và chủ nghĩa tân tự do (neoliberalism - một trường phái kinh tế và chính trị tập trung vào việc giảm sự can thiệp của chính phủ trong kinh tế và thúc đẩy tự do kinh doanh và thị trường). Phân quyền được hiểu là sự chuyển giao quyền quyết định về chính sách, kế hoạch, điều hành và phân bổ nguồn lực từ Bộ đến các sở và các trường học. Cơ cấu quản lý như vậy sẽ tăng cường quyền tự chủ và năng lực cạnh tranh giữa các trường, nhưng cũng có thể gia tăng khoảng cách giữa mục tiêu giáo dục và thành tích học tập. Trong bối cảnh quản lý tập trung của Việt Nam, câu hỏi liệu việc phân quyền có thể giúp giáo dục đại học giải quyết các vấn đề về chất lượng, sự bình đẳng và trách nhiệm giải trình hay không vẫn chưa được trả lời thỏa đáng. Vì vậy, bài báo này sẽ làm rõ một số vấn đề về chính sách phân quyền của chủ nghĩa tân tự do trong quản lý giáo dục đại học và bài học kinh nghiệm từ một số nước qua thực tế triển khai.
Cơ sở hình thành văn hóa từ chức ở Việt Nam hiện nay
Cơ sở hình thành văn hóa từ chức ở Việt Nam hiện nay
Văn hoá từ chức là những ứng xử dựa trên lương tri, lòng tự trọng khi những người lãnh đạo thấy mình mắc khuyết điểm, lỗi lầm, thấy không còn xứng đáng đảm nhận được nhiệm vụ hiện tại; là hành vi của cá nhân tự nguyện rời bỏ vị trí lãnh đạo, cầm quyền của mình cho người khác có khả năng hơn (năng lực, trình độ, phẩm chất, sức khỏe…) nhằm đảm bảo lợi ích chung của tập thể, cộng đồng và sự phát triển của đất nước.
Nâng cao nhận thức của các tổ chức đảng và đảng viên trong xây dựng đảng về đạo đức ở Việt Nam hiện nay
Nâng cao nhận thức của các tổ chức đảng và đảng viên trong xây dựng đảng về đạo đức ở Việt Nam hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức có vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Đây là một trong những nhân tố quyết định trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, để Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế hiện nay, chúng ta phải nghiêm khắc thừa nhận, một số cán bộ đảng viên và tổ chức đảng còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế, yếu kém. Bài viết nêu ra thực trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, từ đó chỉ ra một số phương pháp cơ bản để nâng cao nhận thức của các tổ chức đảng và đảng viên trong xây dựng Đảng về đạo đức ở Việt Nam hiện nay.
Những thành tựu lý luận lớn của Đảng qua gần 40 năm đổi mới
Những thành tựu lý luận lớn của Đảng qua gần 40 năm đổi mới
Những thành tựu lý luận lớn của Đảng qua gần 40 năm đổi mới thể hiện sự kiên định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Theo đó, một trong những yêu cầu quan trọng hiện nay là cần tăng cường tổng kết những thành tựu lý luận của Đảng, nhằm góp phần phát triển, hoàn thiện, nâng tầm lý luận của Đảng, nhất là những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đặc thù, riêng có ở Việt Nam, hướng đến thực hiện thắng lợi những mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Đảng Cộng sản Việt Nam và niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Đảng Cộng sản Việt Nam và niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - một sự kiện trọng đại đã tạo ra bước ngoặt căn bản, làm thay đổi cả vận mệnh dân tộc, thân phận của người dân và vị thế của quốc gia Việt Nam. Những thắng lợi vĩ đại, những thành tựu đáng tự hào của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 94 năm qua chính là niềm tin, là nhân tố cơ bản để toàn thể dân tộc tiếp tục hiện thực hóa khát vọng đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc trong giai đoạn mới.
Bình luận