Phát triển thị trường lao động Việt Nam hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế
Nhận thức về thị trường lao động Việt Nam hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế
Thị trường lao động (TTLĐ) hình thành và phát triển trong tổng thể phát triển nền kinh tế thị trường. Xu hướng chung của các nước trên thế giới có nền kinh tế thị trường đều dựa trên nền tảng phát triển đồng bộ các loại thị trường cơ bản, trong đó có TTLĐ. E. Robert, trong tác phẩm “Kinh tế lao động” (xuất bản năm 1991), cho rằng, TTLĐ là thị trường lớn nhất và quan trọng nhất trong hệ thống các thị trường của nền kinh tế thị trường. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII của Đảng “Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” xác định: Thị trường lao động là một trong những thị trường quan trọng của kinh tế thị trường. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: Thị trường (bao gồm TTLĐ) đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ, tạo động lực huy động, phân bố các nguồn lực.
Phát triển TTLĐ Việt Nam hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế là nhằm đạt tới một TTLĐ có khả năng vận hành đồng bộ, thông suốt và hiệu quả trên phạm vi cả nước; có sự kết nối TTLĐ với các thị trường khác trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, TTLĐ trong nước với TTLĐ của các nước trong khu vực và trên thế giới; góp phần huy động, phân bố và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đáp ứng quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm người lao động có việc làm bền vững.
Các đặc trưng chủ yếu của TTLĐ Việt Nam hiện đại, đầy đủ và hội nhập là:
1- Thị trường lao động hoạt động theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, nhất là quy luật cung - cầu lao động, quy luật cạnh tranh công bằng trong lao động... Đồng thời, có sự kết nối, liên thông, không rào cản giữa các khu vực, các vùng trong nước và với ngoài nước trong quá trình hội nhập;
2- Sức lao động được giải phóng triệt để. Người lao động được tự do lựa chọn việc làm, tự do đối thoại, thương lượng, thỏa thuận với người sử dụng lao động trong quan hệ lao động để ký kết hợp đồng lao động, tự do dịch chuyển trên TTLĐ...;
3- Lao động là yếu tố đầu vào của sản xuất (đường cung lao động) có mối quan hệ tương tác chặt chẽ với cầu lao động (đường cầu lao động), nhưng người lao động, nhất là người lao động có kỹ năng, là yếu tố quyết định nhất của sản xuất, kinh doanh và dịch vụ trong kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ và hội nhập;
4- Quan hệ cung - cầu lao động trên TTLĐ là quan hệ thỏa thuận giữa các bên về các nội dung quan hệ lao động theo những tiêu chuẩn lao động cơ bản tiếp cận các chuẩn mực quốc tế do Nhà nước quy định (về việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn, vệ sinh lao động và các điều kiện làm việc khác) làm căn cứ cho các bên quan hệ lao động thương lượng, thỏa thuận, định đoạt và tự chịu trách nhiệm; người lao động có cơ hội bình đẳng tham gia TTLĐ để có thể tìm việc làm bền vững;
5- Đối thoại, thương lượng và thỏa thuận về các nội dung quan hệ lao động của các chủ thể quan hệ lao động theo cơ chế ba bên ở cấp ngành hay quốc gia (đại diện người sử dụng lao động, đại diện người lao động và Nhà nước) và theo cơ chế hai bên ở cấp doanh nghiệp (đại diện người sử dụng lao động và đại diện người lao động) phải bảo đảm tính độc lập, công khai, minh bạch và thực chất;
6- Thị trường lao động hoạt động theo các quy luật khách quan nhưng không tuyệt đối hóa sự điều tiết bởi “bàn tay vô hình”, mà có sự điều tiết của Nhà nước thông qua các công cụ quản lý và hỗ trợ để phòng ngừa, giải quyết những trục trặc, thất bại của thị trường, nhất là khi xảy ra khủng hoảng kinh tế, biến đổi khí hậu và dịch bệnh, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,... tác động tiêu cực đến hoạt động bình thường hoặc kìm hãm sự phát triển của TTLĐ.
Thực trạng thị trường lao động Việt Nam hiện nay
Trong quá trình đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề phát triển TTLĐ đặt ra rất cấp thiết. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, quán triệt và thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước đã ban hành chính sách, pháp luật tạo hành lang pháp lý phát triển TTLĐ, từng bước tiếp cận các chuẩn mực quốc tế trong quá trình hội nhập. Điều này thể hiện rất rõ trong hệ thống pháp luật kinh tế(1) phù hợp với nền kinh tế thị trường. Đặc biệt, các quy định pháp luật về TTLĐ được thể hiện cụ thể trong Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Bộ luật Lao động, Luật Việc làm, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế,... tạo khung pháp lý phát triển TTLĐ; qua đó, về cơ bản, đã hình thành thể chế TTLĐ mới theo hướng giải phóng sức lao động, tự do hóa trong lao động và thực hiện công bằng xã hội; bảo đảm TTLĐ hoạt động theo đúng nguyên tắc thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước để kết nối cung - cầu lao động, nhiều người có việc làm tại TTLĐ trong nước và ngoài nước, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực.
Sau hơn 35 năm đổi mới đất nước TTLĐ Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc cả về quy mô và chất lượng, từng bước hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế:
Một là, về cầu lao động, từ thành tựu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nền kinh tế Việt Nam không ngừng phát triển theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới trên “sân chơi” toàn cầu. Cầu lao động trên TTLĐ không ngừng tăng cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu ngành, nghề theo hướng hiện đại, từng bước tạo việc làm đầy đủ, bền vững hơn cho người lao động.
Hai là, về cung lao động, hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp phát triển được chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế, gắn kết chặt chẽ hơn với nhu cầu của TTLĐ để phát triển nguồn nhân lực về số lượng, liên thông giữa các cấp trình độ, từng bước nâng cao chất lượng, góp phần tạo cung lao động có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, từng bước tiếp cận tiêu chuẩn kỹ năng nghề khu vực và thế giới, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của TTLĐ.
Ba là, thay đổi căn bản phương thức tuyển dụng, sử dụng lao động khu vực thị trường trên cơ sở giao kết hợp đồng lao động. Thực hiện cơ chế đối thoại, thương lượng và thỏa thuận giữa các bên về quan hệ lao động (việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn, vệ sinh lao động và các điều kiện làm việc khác) phù hợp với kinh tế thị trường. Hình thành từng bước quan hệ (cơ chế) hai bên (ở cấp cơ sở) và quan hệ (cơ chế) ba bên ở cấp quốc gia, cũng như tổ chức đại diện các bên (Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động) trong quan hệ lao động, bảo đảm hài hòa lợi ích các bên. Tranh chấp lao động và đình công được giải quyết theo trình tự và thủ tục quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các bên trong quan hệ lao động.
Bốn là, hệ thống dự báo cung - cầu lao động, thông tin TTLĐ, dịch vụ việc làm được thiết lập thực hiện chức năng tư vấn, kết nối cung - cầu lao động, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động trên TTLĐ trong nước và ngoài nước.
Năm là, TTLĐ trở thành động lực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chuyển mạnh lao động nông nghiệp sang làm việc khu vực sản xuất hàng hóa, kinh tế, có quan hệ lao động. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, đến năm 2020, lao động làm việc trong ngành nông nghiệp giảm xuống chỉ còn 32,8%, tỷ lệ lao động làm việc trong ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 77,2%. Người lao động có nhiều cơ hội việc làm trên TTLĐ. Theo đó, hằng năm, thị trường lao động tạo thêm việc làm mới cho khoảng 1,6 triệu lao động. Việt Nam từ một nước dư thừa lao động, đến giai đoạn 2016 - 2020, tỷ lệ tăng trưởng việc làm đã đạt mức cân bằng và cao hơn tỷ lệ tăng trưởng lực lượng lao động. Tỷ lệ lao động có việc làm khu vực chính thức (có quan hệ lao động) tăng bình quân 5,6%/năm giai đoạn 2016 - 2019. Tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức thấp, từ 2,0% đến 2,2%; tỷ lệ thất nghiệp thành thị luôn dưới 3,5%.
Tuy nhiên, TTLĐ Việt Nam còn những hạn chế, chưa bắt kịp chuẩn mực nền kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế, thể hiện:
Thứ nhất, chính sách TTLĐ chưa hoàn thiện và chưa đủ mạnh để giải phóng triệt để mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm theo hướng bền vững. Thiếu chính sách cụ thể phát triển TTLĐ bảo đảm giải phóng triệt để sức lao động, tự do hóa mạnh trong lao động để người lao động được tự do hành nghề, tự do dịch chuyển, tự do lựa chọn việc làm trên TTLĐ theo nhu cầu và khả năng. Vẫn còn những rào cản về quản lý và thủ tục hành chính bảo đảm tự do di chuyển của lao động trên TTLĐ trong nước và ngoài nước trên một sân chơi công bằng, bình đẳng.
Thứ hai, TTLĐ có sự phân mảng giữa các vùng, khu vực và ngành, nghề. Còn bỏ ngỏ quản lý và kết nối với phân khúc TTLĐ trong kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế tự do dựa trên nền tảng trực tuyến áp dụng công nghệ thông tin (bán hàng trực tuyến, giao nhận hàng hóa, lái xe công nghệ,...) đang có xu hướng phát triển. Thị trường lao động trong kinh tế nông nghiệp, nông thôn, khu vực phi chính thức và TTLĐ trình độ cao gắn kết với thị trường khoa học và công nghệ chưa phát triển mạnh...
Thứ ba, quan hệ cung - cầu lao động trên TTLĐ cần phát triển theo hướng đòi hỏi cung lao động có chất lượng hơn để đáp ứng cầu lao động của nền kinh tế hiện đại và hội nhập. Các tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia của Việt Nam chậm được ban hành, nhiều nghề trọng điểm chưa có tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, một số nghề tiêu chuẩn còn thấp so với tiêu chuẩn kỹ năng nghề khu vực và các nước phát triển trên thế giới; việc tổ chức đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề chưa được triển khai rộng rãi. Do đó, trên thực tế, một số lao động đã qua đào tạo, giáo dục nghề nghiệp nhưng chất lượng còn thấp. Đặc biệt, tình trạng thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, lao động trong một số ngành công nghiệp mới, nhất là khi Việt Nam đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
Cơ chế đối thoại, thương lượng và thỏa thuận các bên trong quan hệ lao động cấp doanh nghiệp chưa hoàn thiện; thiết chế giải quyết tranh chấp lao động và đình công chưa phù hợp với thực tế, nên hầu hết các cuộc đình công diễn ra chưa đúng với quy định của pháp luật. Hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp chưa hoàn chỉnh và chưa gắn kết chặt chẽ với hệ thống an sinh xã hội, chưa thích ứng với quá trình già hóa dân số và sự xuất hiện các loại hình kinh tế mới, như kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế tự do trên nền tảng trực tuyến... Lao động trong phân khúc TTLĐ này chưa được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp.
Thứ tư, kết cấu hạ tầng dịch vụ TTLĐ chưa hiện đại; năng lực dự báo cung - cầu lao động còn hạn chế; cơ sở dữ liệu TTLĐ chưa đầy đủ và cập nhật; hệ thống dịch vụ việc làm kết nối TTLĐ trong nước với TTLĐ quốc tế chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cả người sử dụng lao động và người lao động trong nước cũng như ngoài nước.
Định hướng phát triển đến năm 2030
Bước sang giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Đại hội XIII của Đảng xác định: Phải tạo bước phát triển mới cho đất nước với mô hình tăng trưởng dựa trên cơ sở sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa tuân thủ các quy luật, nguyên tắc của thị trường trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, vừa có sự điều tiết, quản lý của Nhà nước; tạo ra các động lực và mũi nhọn tăng trưởng cao; xử lý các thất bại của thị trường để bảo đảm quyền con người trong lao động, việc làm bền vững, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội.
Việt Nam đã hình thành và ngày càng phát triển các loại hình kinh tế đa dạng, phân chia theo các khu vực: Kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân/hộ gia đình và kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); kinh tế chính thức với việc làm có quan hệ lao động và không chính thức, tự làm không có quan hệ lao động; kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ..., và như vậy, vẫn có nhiều phân khúc TTLĐ. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động sẽ tiếp tục theo hướng chuyển mạnh sang lao động sản xuất hàng hóa, khu vực kinh tế chính thức, FDI và một bộ phận lao động vào làm việc trong nền kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ... Việt Nam cũng là nước có độ mở ngày càng lớn của kinh tế thị trường trong quá trình hội nhập, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và phân công lao động quốc tế. Với thành tựu khoa học và công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại, Việt Nam đang có bước chuyển sang thời kỳ số hóa nền kinh tế và quản lý, quản trị xã hội là yếu tố rất quan trọng để hình thành và phát triển các ngành kinh tế đa dạng theo xu hướng chung của kinh tế thế giới.
Để phát triển TTLĐ Việt Nam hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII định hướng tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành, nghề. Đại hội XIII của Đảng chủ trương phát triển thị trường lao động, hướng đến việc làm bền vững. Quán triệt chủ trương, định hướng này, Chính phủ có Quyết định số 176/QĐ-TTg, ngày 5.2.2021, về việc “Ban hành Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030” theo hướng tiếp cận chuẩn mực nền kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế với mục tiêu chung và quan điểm định hướng như sau:
Về mục tiêu chung: Tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng và phát triển đồng bộ các yếu tố TTLĐ, góp phần huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, bảo đảm kết nối TTLĐ trong nước với TTLĐ của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Về quan điểm định hướng:
Một là, phát triển TTLĐ toàn diện, bền vững theo hướng hiện đại, hiệu quả, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng địa phương làm cơ sở, động lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hai là, Nhà nước giữ vai trò kiến tạo và hỗ trợ phát triển TTLĐ thông qua việc hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của cơ chế chính sách, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về phát triển TTLĐ, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính để hạn chế những rủi ro liên quan đến quyền lợi của người lao động trong bối cảnh diễn ra cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Ba là, chủ động hội nhập quốc tế, đẩy mạnh kết nối cung - cầu lao động trong nước gắn với TTLĐ quốc tế.
Một số giải pháp trong thời gian tới
Để thực hiện mục tiêu, định hướng trên, cần thực hiện đồng bộ, hiệu quả và quyết liệt các giải pháp:
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật đồng bộ, thống nhất để TTLĐ phát triển theo hướng hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế.
Hoàn thiện chính sách theo hướng giải phóng triệt để sức sản xuất và sức lao động, phát huy cao nhất đóng góp của người lao động có kỹ năng cho tăng trưởng, phát triển kinh tế, thúc đẩy tạo việc làm bền vững, có thu nhập cao. Đặc biệt là tự do hóa mạnh hơn nữa để lao động, nhất là lao động có kỹ năng được tự do lựa chọn việc làm, tự do di chuyển trên TTLĐ, không bị rào cản bởi khu vực kinh tế, địa giới hành chính và nơi cư trú.
Tiếp tục nội luật hóa và quy định cụ thể các tiêu chuẩn lao động phù hợp với điều kiện của Việt Nam và tiêu chuẩn lao động quốc tế (các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các FTA thế hệ mới) mà Việt Nam cam kết và phê chuẩn.
Có chính sách khuyến khích hình thành và phát triển nhanh TTLĐ trình độ cao (lao động có kỹ năng trình độ cao, lao động lành nghề), tạo môi trường cho lao động chất lượng cao tự do di chuyển giữa các ngành, vùng và lĩnh vực nhằm thúc đẩy chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và lao động theo hướng hiện đại, phát triển kinh tế tri thức, tham gia tích cực vào chuỗi giá trị toàn cầu và phân công lao động quốc tế.
Hoàn thiện thể chế về cơ chế hai bên, cơ chế ba bên trong quan hệ lao động; cơ chế đối thoại, thương lượng và thỏa thuận về quan hệ lao động, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động và đình công theo đúng nguyên tắc thị trường và có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Thể chế hóa chủ trương của Đảng về xây dựng quan hệ lao động mới hài hòa, ổn định và tiến bộ trên tinh thần hợp tác, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa nhà đầu tư, người lao động, Nhà nước.
Hai là, trên cơ sở cầu lao động trên TTLĐ hiện đại, đầy đủ và hội nhập, cần tập trung phát triển cung lao động thông qua đổi mới đào tạo, giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở và linh hoạt, chuyển mạnh từ trang bị kiến thức (lý thuyết) sang phát triển kỹ năng nghề đạt tiêu chuẩn Việt Nam, từng bước đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế cho người lao động, nhất là cho lao động trẻ; phát triển đào tạo, giáo dục nghề nghiệp gắn với nhu cầu của TTLĐ, tăng cường liên kết giữa cơ sở đào tạo, giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp với các mô hình đa dạng, hiệu quả; chú trọng đào tạo các kỹ năng mềm (ngoại ngữ, công nghệ thông tin, năng lực sáng tạo, kỹ năng làm việc nhóm và trong môi trường đa văn hóa...).
Ba là, phát triển lưới an sinh và bảo hiểm trên cơ sở quán triệt, cụ thể hóa và thực hiện hiệu quả Kết luận số 92-KL/TW, ngày 5.11.2020, của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XI “Về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII “Về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội”, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế toàn dân. Tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách bảo hiểm xã hội cũng như tính linh hoạt, liên thông của các chính sách cho người lao động khi tham gia TTLĐ, nhất là lao động trong kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, khu vực phi chính thức, nhằm đạt được mục tiêu mở rộng diện bao phủ.
Bốn là, đầu tư phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng của TTLĐ (hệ thống dự báo cung - cầu lao động, cơ sở dữ liệu lớn TTLĐ, thông tin TTLĐ và dịch vụ việc làm) hiện đại, áp dụng công nghệ cao. Hệ thống này cần được phát triển rộng khắp trên cả nước, được chuyển đổi số để kết nối, liên thông TTLĐ trong nước và kết nối với TTLĐ quốc tế.
Năm là, nâng cao hiệu quả quản lý, tổ chức, vận hành, hỗ trợ phát triển TTLĐ của Nhà nước. Trong đó, Nhà nước thiết lập hành lang pháp lý cho TTLĐ phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tiếp cận chuẩn mực quốc tế; hỗ trợ TTLĐ phát triển (đầu tư hạ tầng dịch vụ TTLĐ, chuyển đổi số, phát triển lưới an sinh xã hội và bảo hiểm, kết nối TTLĐ trong và ngoài nước, phát triển phân khúc TTLĐ đặc thù, như TTLĐ trình độ cao và TTLĐ trong kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ,...); đổi mới và nâng cao hiệu quả thanh tra TTLĐ; phản ứng chính sách kịp thời để xử lý những tác động không mong muốn trong hội nhập và tham gia TTLĐ quốc tế...
Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế, nhất là với các tổ chức quốc tế như ILO, Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), Ngân hàng Thế giới (WB),... và các nước phát triển, các nước ASEAN để học tập, chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho xây dựng chính sách và tổ chức vận hành, quản trị hiệu quả TTLĐ./.
________________________________
(1) Như: Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật Thuế, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh, Luật Phá sản...
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 06.08.2022
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 3 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Vai trò của các chương trình tương tác trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Các chương trình tương tác là một trong những nội dung được đánh giá là hấp dẫn và thu hút công chúng trên báo mạng điện tử hiện nay. Không còn dừng lại ở một vài hình thức nhỏ lẻ, cùng với sự linh hoạt của báo mạng điện tử, các chương trình tương tác ngày càng đa dạng và phong phú về nội dung và hình thức, tăng thêm sức hấp dẫn cho tờ báo, thu hút công chúng. Bài viết sẽ đi sâu vào nghiên cứu về vai trò của các chương trình tương tác trên báo mạng điện tử hiện nay, làm rõ dưới các góc độ công chúng, tờ báo và hoạt động báo chí nói chung, từ đó lý giải được nguyên nhân vì sao các chương trình tương tác đang ngày càng được các tờ báo mạng điện tử coi trọng và tập trung phát triển.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận