Vấn đề truyền thông chính sách năng lượng
Truyền thông chính sách
Truyền thông chính sách (TTCS) được hiểu là quá trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thông tin bằng một hệ thống ký hiệu, quy ước nhằm tạo sự liên kết để thay đổi nhận thức và hành vi về chính sách. Mục tiêu cốt lõi của truyền thông chính sách là thu hút người dân và những bên liên quan tham gia vào các chu trình chính sách.
TTCS là kênh bày tỏ sáng kiến chính sách cũng như chính nó cũng áp dụng cho các công cụ quản lý truyền thông (Liu, B. & Horsley, J. 2007). Mục tiêu cốt lõi của truyền thông chính sách là thu hút người dân và những bên liên quan tham gia vào các chu trình chính sách.
Truyền thông chính sách là một phần hành động của chính phủ để thực hiện một chính sách cụ thể; giúp các cơ quan Nhà nước đưa thông tin đến người dân để thuyết phục họ thay đổi nhận thức và hành động đúng pháp luật, cùng tham gia đóng góp ý kiến để xây dựng và hoàn thiện chính sách.
Năng lượng cũng có tác động mạnh mẽ đến môi trường, tài nguyên, cơ sở hạ tầng, an ninh quốc gia và đời sống của người dân. Chính sách năng lượng (CSNL) có tác động trực tiếp lên mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 11/2/2020 về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của ngành năng lượng và CSNL. Do vậy, công tác truyền thông CSNL đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng niềm tin chính trị và tạo đồng thuận xã hội.
Tại Việt Nam, chủ thể lãnh đạo, quản lý truyền thông CSNL là Bộ Công Thương, dưới sự chỉ đạo chung của Chính phủ và Ban Kinh tế Trung ương. Một chủ thể khác của truyền thông CSNL là các cơ quan báo chí (bao gồm cơ quan quản lý báo chí và cơ quan báo chí), trong đó báo chí tham gia truyền thông tại tất cả các khâu của chu trình chính sách nói chung và CSNL nói riêng, có thể khái quát như sau: Xây dựng chương trình nghị sự; Hoạch định chính sách; Phê duyệt, thông qua chính sách; Thực thi và đánh giá chính sách.
Báo chí tham gia chu trình truyền thông CSNL với vai trò phản biện xã hội và giám sát xã hội, đảm bảo cho CSNL được hoạch định và xây dựng vì lợi ích công, thực thi được các nguyên tắc dân chủ. Đặc biệt chức năng giám sát xã hội của báo chí đảm bảo cho chính sách được thực thi đúng đắn, không bị làm méo mó, sai lệch mục tiêu chính sách và chỉ phục vụ nhóm lợi ích. Báo chí truyền thông tham gia phân tích, đánh giá tổng kết thực tiễn thực hiện chính sách công nhằm đưa ra những bài học, kinh nghiệm thực tiễn góp phần hoàn thiện chu trình chính sách công.
Theo TS Vũ Thanh Vân, “năng lực tiếp nhận chính sách công của công chúng không có được nhờ đào tạo, bồi dưỡng mang tính chính quy như của chủ thể truyền thông mà là kết quả của quá trình học tập suốt đời. Do vậy, việc nâng cao năng lực tiếp nhận chính sách của công chúng phải gắn liền với lộ trình TTCS, nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực TTCS”.
Hiệu quả truyền thông chính sách công được xác định bởi mức độ đạt được mục tiêu thay đổi thái độ, nhận thức của công chúng trong mối tương quan với nguồn lực đầu tư để đạt được mục tiêu đó. Trong khi đó, hiệu lực truyền thông được xác định bởi mức độ chấp nhận, chấp hành của công chúng đối với nội dung TTCS.
Vấn đề truyền thông chính sách năng lượng ở Việt Nam
Từ góc độ các nhà hoạch định chính sách
Bộ Công Thương là chủ thể thực hiện các công tác hoạch định và xây dựng CSNL. Trong cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương có Khối đơn vị báo chí, thực hiện chức năng nhiệm vụ tuyên truyền, giới thiệu và cung cấp thông tin về các chính sách công thương nói chung, bao gồm cả CSNL. Như vậy có thể thấy, các đơn vị này đang tập trung vào công tác tuyên truyền chính sách chứ chưa chú trọng vào công tác tiếp nhận phản hồi, đánh giá về chính sách trong ngành công thương nói chung và CSNL nói riêng.
Thêm vào đó, các cơ quan báo chí này hoạt động theo Luật Báo chí, nhưng lại chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Công Thương, do vậy, rất khó để có thể thực hiện được các chức năng phản biện xã hội và giám sát xã hội trong các khâu của chu trình CSNL.
Các cơ quan thuộc Khối Báo chí và cơ quan quản lý Cổng thông tin điện tử của Bộ Công Thương chưa có chức năng như một đơn vị “truyền thông chính phủ” một cách rõ ràng. Một trong những chức năng của một đơn vị truyền thông chính phủ là xây dựng và tham mưu cho lãnh đạo chiến lược, kế hoạch truyền thông CSNL, công tác nâng cao năng lực cán bộ truyền thông CSNL hay xây dựng mối quan hệ với báo chí.
Ngoài ra, hoạt động truyền thông CSNL hiện nay còn tồn tại khá nhiều vấn đề như thông tin cơ sở (thông tin “đầu vào”) trong hoạch định CSNL hiện nay còn thiếu và yếu, đặc biệt trong bối cảnh CSNL liên quan chặt chẽ và có ảnh hưởng trực tiếp tới nhiều ngành khác như tài nguyên môi trường, giao thông, quy hoạch hạ tầng... Việc truyền thông chính sách nói chung và CSNL thiếu chiến lược dài hạn, nhất quán, chưa có sự phối hợp chặt chẽ của cơ quan hoạch định chính sách với các cơ quan truyền thông báo chí.
Hiện nay, một CSNL đang nhận được sự quan tâm của các bên liên quan cũng như đông đảo công chúng truyền thông là Dự thảo Đề án Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn tới năm 2045 (gọi tắt là dự thảo Quy hoạch điện VIII).
Chúng tôi thực hiện khảo sát sơ bộ tại các kênh truyền thông của Bộ Công Thương, bằng công cụ tìm kiếm Google nâng cao với từ khóa “congthuong.vn” và “Quy hoạch điện VIII”, kết quả là có 8 bài viết từ ngày 8/7/2020 đến ngày 23/3/2021, trong đó chủ yếu thông tin về hoạt động tổ chức lấy ý kiến đóng góp vào dự thảo Quy hoạch điện VIII. Với các từ khóa “moit.com.vn” và “Quy hoạch điện VIII”, có 5 bài viết trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Công Thương từ 14/8/2020 đến 24/2/2021.
Khảo sát sơ bộ trên công cụ tìm kiếm Google với kênh Truyền hình Công thương cho thấy chỉ có 4 chương trình về Quy hoạch điện VIII được kênh truyền hình này sản xuất trong khoảng thời gian từ 24/8/2020 đến 8/3/2021, trong đó các chương trình này khi được đăng tải trên kênh Youtube.com thì có khoảng từ 24 đến 108 lượt xem (tính đến ngày 31/3/2021).
Có thể thấy, số lượng tin bài truyền thông chủ động từ phía các nhà hoạch định chính sách còn khá hạn chế, ít thu hút được sự quan tâm của công chúng và các bên liên quan, với cách truyền tải thông tin khá truyền thống, thiếu các hình ảnh đồ họa (infographic), dữ liệu đa phương tiện thể hiện trực quan sinh động các nội dung mang tính chuyên môn, kỹ thuật cao trong dự thảo quy hoạch quan trọng trong lĩnh vực năng lượng này của quốc gia.
Từ góc độ cơ quan quản lý báo chí và cơ quan báo chí
Báo chí là đơn vị trung gian giữa công chúng và cơ quan hoạch định chính sách, tạo ra kênh đối thoại trực tiếp hoặc gián tiếp giữa cơ quan hoạch định chính sách và công chúng. Theo kết quả khảo sát được thực hiện với 40 phóng viên, biên tập viên của các cơ quan báo chí lớn tại Việt Nam năm 2019, công tác TTCS chưa đạt được những hiệu quả mong muốn, do còn tồn tại những rào cản về: “cơ hội tham gia vào quá trình chính sách của người dân còn hạn chế” (87,5%), “năng lực của đội ngũ TTCS còn hạn chế” (85%) và “năng lực của đội ngũ hoạch định chính sách còn hạn chế” (82,5%). Ngoài ra, những rào cản khác được chỉ ra bao gồm: “thiếu chiến lược, mô hình TTCS” (70%), “nội dung thông tin về chính sách chưa tốt” (70%), “ứng dụng và triển khai công nghệ mới chậm so với tốc độ phát triển” (60%) và “thiếu nguồn lực cho TTCS” (55%).
Hoạt động của các cơ quan truyền thông hiện vẫn mang nặng tính chất tuyên truyền, phổ biến chính sách, áp đặt một chiều trong truyền tải thông tin. Việc nắm bắt đối tượng công chúng của chủ thể truyền thông CSNL chưa hiệu quả khiến công tác truyền thông chính sách chưa có hiệu quả cao. Thông tin về quá trình thực thi CSNL còn khá một chiều, thiên về tuyên truyền mặt tốt, mặt tích cực khiến cho thông tin truyền tải trong xã hội còn thiếu khách quan, chân thực. Các kênh truyền thông chính thống còn khá hạn chế phản ánh ý kiến đánh giá phản biện của người dân.
Cuối cùng, môi trường truyền thông chính sách nói chung và CSNL nói riêng ở nước ta chưa thực sự thuận lợi. Các quy định, chế tài trong hoạt động truyền thông chính sách còn cũ so với sự vận động của lĩnh vực truyền thông và lĩnh vực chính sách công.
Việc ứng dụng kỹ thuật, công nghệ hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông còn nhiều bất cập cũng như sự hạn chế và thiếu tính đa dạng của các kênh truyền thông và phương thức truyền thông.
Giải pháp, kiến nghị
Trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng vào quá trình toàn cầu hóa, sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ truyền thông cũng như năng lực tiếp nhận chính sách của công chúng – đối tượng truyền thông, công tác TTCS cần có những điều chỉnh, cập nhật nhanh chóng cả về nhận thức và tổ chức bộ máy của các cơ quan chủ quản để thích ứng với sự phát triển của xã hội, góp phần xây dựng chính phủ kiến tạo, dân chủ, minh bạch.
Bộ Công Thương và các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng cần quan tâm hơn tới việc truyền thông chính sách năng lượng theo các chu trình chính sách công, huy động và phát huy vai trò của cơ quan quản lý ngành trong việc thực hiện TTCS. Cụ thể, Bộ Công Thương thành lập cơ quan truyền thông cấp vụ đủ mạnh về tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ.
Cơ quan này hoạt động theo mô hình truyền thông chính phủ, trong đó quan trọng nhất là thành lập bộ phận tham mưu, nghiên cứu và xây dựng chiến lược truyền thông chính sách theo các khâu trong chu trình chính sách. Đơn vị này còn có nhiệm vụ xây dựng mối quan hệ với các cơ quan báo chí, những người có tầm ảnh hưởng trên mạng xã hội và phối hợp với các đơn vị chuyên môn của Bộ cung cấp thông tin “đầu vào” một cách đầy đủ và toàn diện nhất nhằm thực hiện công tác truyền thông CSNL một cách hiệu quả.
Ngoài ra, đơn vị truyền thông cấp vụ của Bộ Công Thương còn có vai trò điều phối thông tin trên các phương tiện truyền thông của Bộ (Cổng thông tin điện tử và các loại hình báo chí thuộc Bộ), phát triển theo hướng mới và hiện đại hơn, chuyển dịch từ mô hình tuyên truyền sang mô hình tương tác. Một chức năng quan trọng khác là tham mưu cho lãnh đạo Bộ xây dựng các gói nội dung, các chương trình đào tạo cho cán bộ, phóng viên báo chí nhằm quản lý báo chí truyền thông trong lĩnh vực CSNL một cách khoa học và chuyên nghiệp.
Đơn vị truyền thông thuộc Bộ cũng cần đề xuất thực hiện nghiên cứu đối tượng truyền thông, thói quen sử dụng phương tiện truyền thông của họ và xây dựng các kênh truyền thông tương tác nhằm tiếp nhận phản hồi của dư luận xã hội về CSNL. Đơn vị này cũng cần thực hiện công tác xử lý khủng hoảng và theo dõi, lập kế hoạch xử lý vấn đề tin giả liên quan đến CSNL.
Ngoài ra, các đơn vị hoạch định chính sách cần đầu tư ngân sách cho các chương trình truyền thông chính sách công nói chung và CSNL nói riêng, đảm bảo công tác truyền thông được thực hiện bài bản, có chiến lược và đảm bảo hiệu quả.
Đối với các cơ quan báo chí, thực hiện các hoạt động nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ báo chí tham gia chu trình TTCS nói chung như các kiến thức, quy định của pháp luật về chính sách công, chu trình xây dựng chính sách công, dư luận xã hội, truyền thông xã hội, truyền thông sáng tạo và các thông tin nghiên cứu về công chúng, đối tượng của TTCS.
Về lĩnh vực CSNL, kiến nghị nâng cao kiến thức về ngành công nghiệp, khoa học năng lượng, năng lượng tái tạo, CSNL, phối hợp với các tổ chức nước ngoài, đại sứ quán, các tập đoàn hoạt động trong lĩnh vực năng lượng tổ chức các khóa học tập, tham quan thực tế tại các dự án năng lượng trong và ngoài nước và phỏng vấn chuyên gia quốc tế để nâng cao kiến thức trong lĩnh vực năng lượng và chính sách năng lượng, xây dựng một đội ngũ phóng viên có những am hiểu nhất định về công việc phân tích, đánh giá CSNL.
Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương và các bộ ban ngành có liên quan để xây dựng chiến lược TTCS theo các khâu trong chu trình chính sách. Các cơ quan báo chí cần đào tạo cho đội ngũ nhà báo thực hiện công tác TTCS các kỹ năng về giải thích, phân tích chính sách nói chung và CSNL nói riêng, dự báo các tác động của chính sách, nghiên cứu và phân tích văn bản, kỹ năng phân biệt tin giả.
Các cơ quan báo chí cần xây dựng và phát triển mối quan hệ với các chuyên gia, các bộ ban ngành (Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường), các chuyên gia, nhà khoa học tại các viện nghiên cứu, các nhà đầu tư nhằm kịp thời nhận được các nguồn thông tin chính xác, đầy đủ. Ngoài ra, cần quan tâm tới ý kiến của các tổ chức xã hội và người dân (đặc biệt là những người sinh sống tại các địa điểm nằm trong quy hoạch xây dựng các công trình về năng lượng) nhằm thông tin về CSNL theo ngôn ngữ báo chí với góc nhìn báo chí đa chiều.
Các cơ quan báo chí cần cung cấp thông tin dễ hiểu, đầy đủ, chính xác và đa chiều về CSNL, đồng thời ứng dụng công nghệ truyền thông hiện đại, đặc biệt các công nghệ trên nền tảng số và có tính tương tác cao để dễ tiếp cận với công chúng và có thể tiếp nhận được phản hồi của công chúng về CSNL nhằm tăng cường sự tham gia của công chúng trong chu trình chính sách, nhằm xây dựng xã hội dân chủ, minh bạch và bình đẳng./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Người làm báo điện tử ngày 14.05.2021
Bài liên quan
- Ảnh hưởng của tính minh bạch và cá nhân hóa trong nền tảng VieON đến sự hài lòng của người dùng
- Thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long trên truyền hình Việt Nam hiện nay
- Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
- Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
- Nâng cao năng lực tư duy phản biện và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ báo chí - truyền thông trong bối cảnh thông tin hiện nay
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
5
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
-
6
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên là một hệ thống quan điểm có tính toàn diện, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Người. Tư tưởng và phong cách lãnh đạo của Hồ Chí Minh thể hiện ở tư duy đổi mới, phương pháp làm việc khoa học, dân chủ, nêu gương, gắn bó với quần chúng. Đồng thời, Người yêu cầu lãnh đạo phải dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hy sinh vì lợi ích chung, chống quan liêu, hình thức, chủ nghĩa cá nhân. Phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh vì vậy là tấm gương mẫu mực về đạo đức, trí tuệ và bản lĩnh, mãi soi sáng cho công tác lãnh đạo, quản lý và rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Ảnh hưởng của tính minh bạch và cá nhân hóa trong nền tảng VieON đến sự hài lòng của người dùng
Ảnh hưởng của tính minh bạch và cá nhân hóa trong nền tảng VieON đến sự hài lòng của người dùng
Nghiên cứu này kiểm định mô hình mối quan hệ giữa nhận thức về đề xuất nội dung, cảm nhận kiểm soát, mức độ hài lòng và ý định tiếp tục sử dụng, với trường hợp điển hình là VieON. Khảo sát trực tuyến được thực hiện với 224 người dùng, sử dụng các thang đo đã kiểm định qua Cronbach’s Alpha, EFA, phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính, đồng thời kiểm soát các biến giới tính, độ tuổi và tần suất sử dụng. Kết quả cho thấy độ phù hợp và minh bạch (FT) là yếu tố quyết định cả sự hài lòng và ý định sử dụng, trong khi tính hữu ích của gợi ý (RU) chỉ có tác động bổ sung và không còn ý nghĩa khi dự báo sự hài lòng. Mức độ hài lòng (SAT) không giữ vai trò trung gian quan trọng, do ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ từ FT và RU. Các đặc điểm nhân khẩu học cũng tạo ra khác biệt đáng kể. Nghiên cứu khẳng định minh bạch và cá nhân hóa trong hệ thống gợi ý là đòn bẩy chiến lược giúp các nền tảng OTT củng cố niềm tin và lòng trung thành của người dùng.
Thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long trên truyền hình Việt Nam hiện nay
Thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long trên truyền hình Việt Nam hiện nay
Trước thực trạng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang chịu tác động nặng nề từ biến đổi khí hậu (BĐKH), Nghị quyết 120/NQ-CP (2017) của Chính phủ đã đề ra phương châm “thuận thiên”, định hướng phát triển bền vững thông qua thích ứng với tự nhiên, chuyển hóa thách thức thành cơ hội. Song hành cùng quá trình này, báo chí - truyền thông, đặc biệt là truyền hình, giữ vai trò then chốt trong việc lan tỏa mô hình sản xuất bền vững, giới thiệu sáng kiến thành công và nâng cao nhận thức cộng đồng. Tuy vậy, truyền hình vẫn đối mặt với thách thức về thời lượng, kinh phí và xu hướng công chúng chuyển sang nền tảng số, đòi hỏi sự đổi mới trong cách thức truyền tải thông tin để tiếp tục đồng hành cùng người dân ĐBSCL trong hành trình thích ứng với BĐKH.
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
Kỷ nguyên mới đặt ra những thách thức mới cho báo chí – truyền thông Việt Nam. Đã có một sự thay đổi rõ nét về khái niệm, mô hình tổ chức, nội dung và mối quan hệ với công chúng dưới tác động của công nghệ số. Trong quá trình đó, vai trò định hướng xuyên suốt của Đảng trong phát triển báo chí cách mạng, nhất là trong giai đoạn 2006–2025 là đặc biệt sâu sắc. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất các yêu cầu cấp thiết và ba nguyên tắc cốt lõi nhằm phát triển nền báo chí – truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới.
Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
Báo chí đa nền tảng (Multi platform journalism) đã trở thành xu hướng tất yếu trên thế giới và tại Việt Nam những năm gần đây. Tại Việt Nam, sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu 70% cơ quan báo chí đưa nội dung lên các nền tảng số vào năm 2025 và 100% vào năm 2030, báo chí đa nền tảng càng được các tòa soạn đầu tư phát triển, tập trung vào ba nền tảng chính: nền tảng xã hội (social), nền tảng di động (mobile), nền tảng web. Bài viết sẽ đi sâu vào nghiên cứu về sự phát triển của xu hướng báo chí đa nền tảng ở Việt Nam hiện nay, những vấn đề đặt ra ở góc độ nguồn nhân lực, từ đó, đề xuất một số giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực báo chí truyền thông đáp ứng nhu cầu phát triển báo chí đa nền tảng tại Việt Nam.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận