Vấn đề truyền thông chính sách năng lượng
Truyền thông chính sách
Truyền thông chính sách (TTCS) được hiểu là quá trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thông tin bằng một hệ thống ký hiệu, quy ước nhằm tạo sự liên kết để thay đổi nhận thức và hành vi về chính sách. Mục tiêu cốt lõi của truyền thông chính sách là thu hút người dân và những bên liên quan tham gia vào các chu trình chính sách.
TTCS là kênh bày tỏ sáng kiến chính sách cũng như chính nó cũng áp dụng cho các công cụ quản lý truyền thông (Liu, B. & Horsley, J. 2007). Mục tiêu cốt lõi của truyền thông chính sách là thu hút người dân và những bên liên quan tham gia vào các chu trình chính sách.
Truyền thông chính sách là một phần hành động của chính phủ để thực hiện một chính sách cụ thể; giúp các cơ quan Nhà nước đưa thông tin đến người dân để thuyết phục họ thay đổi nhận thức và hành động đúng pháp luật, cùng tham gia đóng góp ý kiến để xây dựng và hoàn thiện chính sách.
Năng lượng cũng có tác động mạnh mẽ đến môi trường, tài nguyên, cơ sở hạ tầng, an ninh quốc gia và đời sống của người dân. Chính sách năng lượng (CSNL) có tác động trực tiếp lên mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 11/2/2020 về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của ngành năng lượng và CSNL. Do vậy, công tác truyền thông CSNL đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng niềm tin chính trị và tạo đồng thuận xã hội.
Tại Việt Nam, chủ thể lãnh đạo, quản lý truyền thông CSNL là Bộ Công Thương, dưới sự chỉ đạo chung của Chính phủ và Ban Kinh tế Trung ương. Một chủ thể khác của truyền thông CSNL là các cơ quan báo chí (bao gồm cơ quan quản lý báo chí và cơ quan báo chí), trong đó báo chí tham gia truyền thông tại tất cả các khâu của chu trình chính sách nói chung và CSNL nói riêng, có thể khái quát như sau: Xây dựng chương trình nghị sự; Hoạch định chính sách; Phê duyệt, thông qua chính sách; Thực thi và đánh giá chính sách.
Báo chí tham gia chu trình truyền thông CSNL với vai trò phản biện xã hội và giám sát xã hội, đảm bảo cho CSNL được hoạch định và xây dựng vì lợi ích công, thực thi được các nguyên tắc dân chủ. Đặc biệt chức năng giám sát xã hội của báo chí đảm bảo cho chính sách được thực thi đúng đắn, không bị làm méo mó, sai lệch mục tiêu chính sách và chỉ phục vụ nhóm lợi ích. Báo chí truyền thông tham gia phân tích, đánh giá tổng kết thực tiễn thực hiện chính sách công nhằm đưa ra những bài học, kinh nghiệm thực tiễn góp phần hoàn thiện chu trình chính sách công.
Theo TS Vũ Thanh Vân, “năng lực tiếp nhận chính sách công của công chúng không có được nhờ đào tạo, bồi dưỡng mang tính chính quy như của chủ thể truyền thông mà là kết quả của quá trình học tập suốt đời. Do vậy, việc nâng cao năng lực tiếp nhận chính sách của công chúng phải gắn liền với lộ trình TTCS, nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực TTCS”.
Hiệu quả truyền thông chính sách công được xác định bởi mức độ đạt được mục tiêu thay đổi thái độ, nhận thức của công chúng trong mối tương quan với nguồn lực đầu tư để đạt được mục tiêu đó. Trong khi đó, hiệu lực truyền thông được xác định bởi mức độ chấp nhận, chấp hành của công chúng đối với nội dung TTCS.
Vấn đề truyền thông chính sách năng lượng ở Việt Nam
Từ góc độ các nhà hoạch định chính sách
Bộ Công Thương là chủ thể thực hiện các công tác hoạch định và xây dựng CSNL. Trong cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương có Khối đơn vị báo chí, thực hiện chức năng nhiệm vụ tuyên truyền, giới thiệu và cung cấp thông tin về các chính sách công thương nói chung, bao gồm cả CSNL. Như vậy có thể thấy, các đơn vị này đang tập trung vào công tác tuyên truyền chính sách chứ chưa chú trọng vào công tác tiếp nhận phản hồi, đánh giá về chính sách trong ngành công thương nói chung và CSNL nói riêng.
Thêm vào đó, các cơ quan báo chí này hoạt động theo Luật Báo chí, nhưng lại chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Công Thương, do vậy, rất khó để có thể thực hiện được các chức năng phản biện xã hội và giám sát xã hội trong các khâu của chu trình CSNL.
Các cơ quan thuộc Khối Báo chí và cơ quan quản lý Cổng thông tin điện tử của Bộ Công Thương chưa có chức năng như một đơn vị “truyền thông chính phủ” một cách rõ ràng. Một trong những chức năng của một đơn vị truyền thông chính phủ là xây dựng và tham mưu cho lãnh đạo chiến lược, kế hoạch truyền thông CSNL, công tác nâng cao năng lực cán bộ truyền thông CSNL hay xây dựng mối quan hệ với báo chí.
Ngoài ra, hoạt động truyền thông CSNL hiện nay còn tồn tại khá nhiều vấn đề như thông tin cơ sở (thông tin “đầu vào”) trong hoạch định CSNL hiện nay còn thiếu và yếu, đặc biệt trong bối cảnh CSNL liên quan chặt chẽ và có ảnh hưởng trực tiếp tới nhiều ngành khác như tài nguyên môi trường, giao thông, quy hoạch hạ tầng... Việc truyền thông chính sách nói chung và CSNL thiếu chiến lược dài hạn, nhất quán, chưa có sự phối hợp chặt chẽ của cơ quan hoạch định chính sách với các cơ quan truyền thông báo chí.
Hiện nay, một CSNL đang nhận được sự quan tâm của các bên liên quan cũng như đông đảo công chúng truyền thông là Dự thảo Đề án Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn tới năm 2045 (gọi tắt là dự thảo Quy hoạch điện VIII).
Chúng tôi thực hiện khảo sát sơ bộ tại các kênh truyền thông của Bộ Công Thương, bằng công cụ tìm kiếm Google nâng cao với từ khóa “congthuong.vn” và “Quy hoạch điện VIII”, kết quả là có 8 bài viết từ ngày 8/7/2020 đến ngày 23/3/2021, trong đó chủ yếu thông tin về hoạt động tổ chức lấy ý kiến đóng góp vào dự thảo Quy hoạch điện VIII. Với các từ khóa “moit.com.vn” và “Quy hoạch điện VIII”, có 5 bài viết trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Công Thương từ 14/8/2020 đến 24/2/2021.
Khảo sát sơ bộ trên công cụ tìm kiếm Google với kênh Truyền hình Công thương cho thấy chỉ có 4 chương trình về Quy hoạch điện VIII được kênh truyền hình này sản xuất trong khoảng thời gian từ 24/8/2020 đến 8/3/2021, trong đó các chương trình này khi được đăng tải trên kênh Youtube.com thì có khoảng từ 24 đến 108 lượt xem (tính đến ngày 31/3/2021).
Có thể thấy, số lượng tin bài truyền thông chủ động từ phía các nhà hoạch định chính sách còn khá hạn chế, ít thu hút được sự quan tâm của công chúng và các bên liên quan, với cách truyền tải thông tin khá truyền thống, thiếu các hình ảnh đồ họa (infographic), dữ liệu đa phương tiện thể hiện trực quan sinh động các nội dung mang tính chuyên môn, kỹ thuật cao trong dự thảo quy hoạch quan trọng trong lĩnh vực năng lượng này của quốc gia.
Từ góc độ cơ quan quản lý báo chí và cơ quan báo chí
Báo chí là đơn vị trung gian giữa công chúng và cơ quan hoạch định chính sách, tạo ra kênh đối thoại trực tiếp hoặc gián tiếp giữa cơ quan hoạch định chính sách và công chúng. Theo kết quả khảo sát được thực hiện với 40 phóng viên, biên tập viên của các cơ quan báo chí lớn tại Việt Nam năm 2019, công tác TTCS chưa đạt được những hiệu quả mong muốn, do còn tồn tại những rào cản về: “cơ hội tham gia vào quá trình chính sách của người dân còn hạn chế” (87,5%), “năng lực của đội ngũ TTCS còn hạn chế” (85%) và “năng lực của đội ngũ hoạch định chính sách còn hạn chế” (82,5%). Ngoài ra, những rào cản khác được chỉ ra bao gồm: “thiếu chiến lược, mô hình TTCS” (70%), “nội dung thông tin về chính sách chưa tốt” (70%), “ứng dụng và triển khai công nghệ mới chậm so với tốc độ phát triển” (60%) và “thiếu nguồn lực cho TTCS” (55%).
Hoạt động của các cơ quan truyền thông hiện vẫn mang nặng tính chất tuyên truyền, phổ biến chính sách, áp đặt một chiều trong truyền tải thông tin. Việc nắm bắt đối tượng công chúng của chủ thể truyền thông CSNL chưa hiệu quả khiến công tác truyền thông chính sách chưa có hiệu quả cao. Thông tin về quá trình thực thi CSNL còn khá một chiều, thiên về tuyên truyền mặt tốt, mặt tích cực khiến cho thông tin truyền tải trong xã hội còn thiếu khách quan, chân thực. Các kênh truyền thông chính thống còn khá hạn chế phản ánh ý kiến đánh giá phản biện của người dân.
Cuối cùng, môi trường truyền thông chính sách nói chung và CSNL nói riêng ở nước ta chưa thực sự thuận lợi. Các quy định, chế tài trong hoạt động truyền thông chính sách còn cũ so với sự vận động của lĩnh vực truyền thông và lĩnh vực chính sách công.
Việc ứng dụng kỹ thuật, công nghệ hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông còn nhiều bất cập cũng như sự hạn chế và thiếu tính đa dạng của các kênh truyền thông và phương thức truyền thông.
Giải pháp, kiến nghị
Trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng vào quá trình toàn cầu hóa, sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ truyền thông cũng như năng lực tiếp nhận chính sách của công chúng – đối tượng truyền thông, công tác TTCS cần có những điều chỉnh, cập nhật nhanh chóng cả về nhận thức và tổ chức bộ máy của các cơ quan chủ quản để thích ứng với sự phát triển của xã hội, góp phần xây dựng chính phủ kiến tạo, dân chủ, minh bạch.
Bộ Công Thương và các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng cần quan tâm hơn tới việc truyền thông chính sách năng lượng theo các chu trình chính sách công, huy động và phát huy vai trò của cơ quan quản lý ngành trong việc thực hiện TTCS. Cụ thể, Bộ Công Thương thành lập cơ quan truyền thông cấp vụ đủ mạnh về tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ.
Cơ quan này hoạt động theo mô hình truyền thông chính phủ, trong đó quan trọng nhất là thành lập bộ phận tham mưu, nghiên cứu và xây dựng chiến lược truyền thông chính sách theo các khâu trong chu trình chính sách. Đơn vị này còn có nhiệm vụ xây dựng mối quan hệ với các cơ quan báo chí, những người có tầm ảnh hưởng trên mạng xã hội và phối hợp với các đơn vị chuyên môn của Bộ cung cấp thông tin “đầu vào” một cách đầy đủ và toàn diện nhất nhằm thực hiện công tác truyền thông CSNL một cách hiệu quả.
Ngoài ra, đơn vị truyền thông cấp vụ của Bộ Công Thương còn có vai trò điều phối thông tin trên các phương tiện truyền thông của Bộ (Cổng thông tin điện tử và các loại hình báo chí thuộc Bộ), phát triển theo hướng mới và hiện đại hơn, chuyển dịch từ mô hình tuyên truyền sang mô hình tương tác. Một chức năng quan trọng khác là tham mưu cho lãnh đạo Bộ xây dựng các gói nội dung, các chương trình đào tạo cho cán bộ, phóng viên báo chí nhằm quản lý báo chí truyền thông trong lĩnh vực CSNL một cách khoa học và chuyên nghiệp.
Đơn vị truyền thông thuộc Bộ cũng cần đề xuất thực hiện nghiên cứu đối tượng truyền thông, thói quen sử dụng phương tiện truyền thông của họ và xây dựng các kênh truyền thông tương tác nhằm tiếp nhận phản hồi của dư luận xã hội về CSNL. Đơn vị này cũng cần thực hiện công tác xử lý khủng hoảng và theo dõi, lập kế hoạch xử lý vấn đề tin giả liên quan đến CSNL.
Ngoài ra, các đơn vị hoạch định chính sách cần đầu tư ngân sách cho các chương trình truyền thông chính sách công nói chung và CSNL nói riêng, đảm bảo công tác truyền thông được thực hiện bài bản, có chiến lược và đảm bảo hiệu quả.
Đối với các cơ quan báo chí, thực hiện các hoạt động nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ báo chí tham gia chu trình TTCS nói chung như các kiến thức, quy định của pháp luật về chính sách công, chu trình xây dựng chính sách công, dư luận xã hội, truyền thông xã hội, truyền thông sáng tạo và các thông tin nghiên cứu về công chúng, đối tượng của TTCS.
Về lĩnh vực CSNL, kiến nghị nâng cao kiến thức về ngành công nghiệp, khoa học năng lượng, năng lượng tái tạo, CSNL, phối hợp với các tổ chức nước ngoài, đại sứ quán, các tập đoàn hoạt động trong lĩnh vực năng lượng tổ chức các khóa học tập, tham quan thực tế tại các dự án năng lượng trong và ngoài nước và phỏng vấn chuyên gia quốc tế để nâng cao kiến thức trong lĩnh vực năng lượng và chính sách năng lượng, xây dựng một đội ngũ phóng viên có những am hiểu nhất định về công việc phân tích, đánh giá CSNL.
Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương và các bộ ban ngành có liên quan để xây dựng chiến lược TTCS theo các khâu trong chu trình chính sách. Các cơ quan báo chí cần đào tạo cho đội ngũ nhà báo thực hiện công tác TTCS các kỹ năng về giải thích, phân tích chính sách nói chung và CSNL nói riêng, dự báo các tác động của chính sách, nghiên cứu và phân tích văn bản, kỹ năng phân biệt tin giả.
Các cơ quan báo chí cần xây dựng và phát triển mối quan hệ với các chuyên gia, các bộ ban ngành (Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường), các chuyên gia, nhà khoa học tại các viện nghiên cứu, các nhà đầu tư nhằm kịp thời nhận được các nguồn thông tin chính xác, đầy đủ. Ngoài ra, cần quan tâm tới ý kiến của các tổ chức xã hội và người dân (đặc biệt là những người sinh sống tại các địa điểm nằm trong quy hoạch xây dựng các công trình về năng lượng) nhằm thông tin về CSNL theo ngôn ngữ báo chí với góc nhìn báo chí đa chiều.
Các cơ quan báo chí cần cung cấp thông tin dễ hiểu, đầy đủ, chính xác và đa chiều về CSNL, đồng thời ứng dụng công nghệ truyền thông hiện đại, đặc biệt các công nghệ trên nền tảng số và có tính tương tác cao để dễ tiếp cận với công chúng và có thể tiếp nhận được phản hồi của công chúng về CSNL nhằm tăng cường sự tham gia của công chúng trong chu trình chính sách, nhằm xây dựng xã hội dân chủ, minh bạch và bình đẳng./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Người làm báo điện tử ngày 14.05.2021
Bài liên quan
- Truyền thông thương hiệu trong lĩnh vực xuất bản (Nghiên cứu trường hợp Nhà xuất bản Kim Đồng)
- Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
- Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
- Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
- Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
Xem nhiều
- 1 Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
- 2 Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- 3 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về học tập tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- 4 Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
- 5 Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
- 6 Một số phương tiện truyền thông mới trên nền tảng web 3.0 hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
Cuộc cách mạng 4.0 đang tạo ra sự thay đổi sâu rộng trong ngành truyền hình với sự xuất hiện của truyền hình đa nền tảng. Khác với truyền hình truyền thống, truyền hình đa nền tảng đã và đang định hình lại cách thức tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung thông qua các đặc trưng nổi bật như tính thời sự, khả năng lan truyền thông tin nhanh chóng, tính đa dạng và tương tác cao, quản lý và lưu trữ hiệu quả. Vận hành một mô hình sản xuất truyền hình đa nền tảng cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, trong đó nhấn mạnh đến các nguyên tắc về thông tin chính xác, kết hợp sản xuất nội dung với công nghệ mới, phát triển đa dạng các nền tảng...
Truyền thông thương hiệu trong lĩnh vực xuất bản (Nghiên cứu trường hợp Nhà xuất bản Kim Đồng)
Truyền thông thương hiệu trong lĩnh vực xuất bản (Nghiên cứu trường hợp Nhà xuất bản Kim Đồng)
Trong bối cảnh hiện nay, các đơn vị xuất bản muốn thu hút độc giả thì công tác truyền thông thương hiệu đóng vai trò quan trọng. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với những phương tiện truyền thông mới đặt ra những cơ hội và thách thức mới trong công tác truyền thông thương hiệu xuất bản. Bài viết tập trung phân tích hoạt động truyền thông thương hiệu của NXB Kim Đồng nhằm rút ra những bài học cho các NXB trong quá trình xây dựng thương hiệu.
Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
Trong bối cảnh du lịch ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, việc phát triển du lịch bền vững tại Khánh Hòa đòi hỏi sự tham gia chủ động của cả chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng địa phương (CĐĐP). Quản trị truyền thông không chỉ góp phần xây dựng hình ảnh Khánh Hòa là một điểm đến bền vững, mà còn trở thành công cụ quan trọng trong việc kết nối các bên liên quan, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường và bảo tồn văn hóa bản địa. Bài báo khoa học này tập trung hệ thống hóa và đánh giá tiềm năng du lịch cộng đồng (DLCĐ) tại tỉnh Khánh Hòa, đồng thời đề xuất các giải pháp quản trị truyền thông hiệu quả nhằm phát triển DLCĐ một cách đồng bộ, giúp du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và đúng định hướng chiến lược, trong đó DLCĐ đóng vai trò cốt lõi. Kết quả nghiên cứu được thu thập thông qua các phương pháp như: phỏng vấn sâu; phương pháp khảo sát; phân tích, tổng hợp và so sánh dữ liệu; xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS.22.0.
Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
Cuộc cách mạng 4.0 đang tạo ra sự thay đổi sâu rộng trong ngành truyền hình với sự xuất hiện của truyền hình đa nền tảng. Khác với truyền hình truyền thống, truyền hình đa nền tảng đã và đang định hình lại cách thức tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung thông qua các đặc trưng nổi bật như tính thời sự, khả năng lan truyền thông tin nhanh chóng, tính đa dạng và tương tác cao, quản lý và lưu trữ hiệu quả. Vận hành một mô hình sản xuất truyền hình đa nền tảng cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, trong đó nhấn mạnh đến các nguyên tắc về thông tin chính xác, kết hợp sản xuất nội dung với công nghệ mới, phát triển đa dạng các nền tảng...
Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
Bài viết nghiên cứu về tác động của truyền thông xã hội đối với hoạt động báo chí hiện nay, tập trung vào sự thay đổi trong hoạt động sản xuất, phân phối tin tức và cấu trúc nội dung báo chí. Truyền thông xã hội đã trở thành một nguồn tin phong phú, đa chiều và nhanh chóng, làm thay đổi đáng kể cách thức thu thập và truyền tải thông tin. Tuy nhiên, tính xác thực của nguồn tin mạng xã hội vẫn là một thách thức, đòi hỏi báo chí phải chú trọng vào việc kiểm chứng và phản hồi thông tin một cách chính xác. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất báo chí cần phát triển nội dung chất lượng cao, tăng cường kỹ năng công nghệ số của phóng viên và xây dựng các nền tảng số riêng để giảm sự phụ thuộc vào truyền thông xã hội, đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy trong kỷ nguyên số.
Bình luận