Vấn đề truyền thông chính sách năng lượng
Truyền thông chính sách
Truyền thông chính sách (TTCS) được hiểu là quá trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thông tin bằng một hệ thống ký hiệu, quy ước nhằm tạo sự liên kết để thay đổi nhận thức và hành vi về chính sách. Mục tiêu cốt lõi của truyền thông chính sách là thu hút người dân và những bên liên quan tham gia vào các chu trình chính sách.
TTCS là kênh bày tỏ sáng kiến chính sách cũng như chính nó cũng áp dụng cho các công cụ quản lý truyền thông (Liu, B. & Horsley, J. 2007). Mục tiêu cốt lõi của truyền thông chính sách là thu hút người dân và những bên liên quan tham gia vào các chu trình chính sách.
Truyền thông chính sách là một phần hành động của chính phủ để thực hiện một chính sách cụ thể; giúp các cơ quan Nhà nước đưa thông tin đến người dân để thuyết phục họ thay đổi nhận thức và hành động đúng pháp luật, cùng tham gia đóng góp ý kiến để xây dựng và hoàn thiện chính sách.
Năng lượng cũng có tác động mạnh mẽ đến môi trường, tài nguyên, cơ sở hạ tầng, an ninh quốc gia và đời sống của người dân. Chính sách năng lượng (CSNL) có tác động trực tiếp lên mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 11/2/2020 về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của ngành năng lượng và CSNL. Do vậy, công tác truyền thông CSNL đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng niềm tin chính trị và tạo đồng thuận xã hội.
Tại Việt Nam, chủ thể lãnh đạo, quản lý truyền thông CSNL là Bộ Công Thương, dưới sự chỉ đạo chung của Chính phủ và Ban Kinh tế Trung ương. Một chủ thể khác của truyền thông CSNL là các cơ quan báo chí (bao gồm cơ quan quản lý báo chí và cơ quan báo chí), trong đó báo chí tham gia truyền thông tại tất cả các khâu của chu trình chính sách nói chung và CSNL nói riêng, có thể khái quát như sau: Xây dựng chương trình nghị sự; Hoạch định chính sách; Phê duyệt, thông qua chính sách; Thực thi và đánh giá chính sách.
Báo chí tham gia chu trình truyền thông CSNL với vai trò phản biện xã hội và giám sát xã hội, đảm bảo cho CSNL được hoạch định và xây dựng vì lợi ích công, thực thi được các nguyên tắc dân chủ. Đặc biệt chức năng giám sát xã hội của báo chí đảm bảo cho chính sách được thực thi đúng đắn, không bị làm méo mó, sai lệch mục tiêu chính sách và chỉ phục vụ nhóm lợi ích. Báo chí truyền thông tham gia phân tích, đánh giá tổng kết thực tiễn thực hiện chính sách công nhằm đưa ra những bài học, kinh nghiệm thực tiễn góp phần hoàn thiện chu trình chính sách công.
Theo TS Vũ Thanh Vân, “năng lực tiếp nhận chính sách công của công chúng không có được nhờ đào tạo, bồi dưỡng mang tính chính quy như của chủ thể truyền thông mà là kết quả của quá trình học tập suốt đời. Do vậy, việc nâng cao năng lực tiếp nhận chính sách của công chúng phải gắn liền với lộ trình TTCS, nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực TTCS”.
Hiệu quả truyền thông chính sách công được xác định bởi mức độ đạt được mục tiêu thay đổi thái độ, nhận thức của công chúng trong mối tương quan với nguồn lực đầu tư để đạt được mục tiêu đó. Trong khi đó, hiệu lực truyền thông được xác định bởi mức độ chấp nhận, chấp hành của công chúng đối với nội dung TTCS.
Vấn đề truyền thông chính sách năng lượng ở Việt Nam
Từ góc độ các nhà hoạch định chính sách
Bộ Công Thương là chủ thể thực hiện các công tác hoạch định và xây dựng CSNL. Trong cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương có Khối đơn vị báo chí, thực hiện chức năng nhiệm vụ tuyên truyền, giới thiệu và cung cấp thông tin về các chính sách công thương nói chung, bao gồm cả CSNL. Như vậy có thể thấy, các đơn vị này đang tập trung vào công tác tuyên truyền chính sách chứ chưa chú trọng vào công tác tiếp nhận phản hồi, đánh giá về chính sách trong ngành công thương nói chung và CSNL nói riêng.
Thêm vào đó, các cơ quan báo chí này hoạt động theo Luật Báo chí, nhưng lại chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Công Thương, do vậy, rất khó để có thể thực hiện được các chức năng phản biện xã hội và giám sát xã hội trong các khâu của chu trình CSNL.
Các cơ quan thuộc Khối Báo chí và cơ quan quản lý Cổng thông tin điện tử của Bộ Công Thương chưa có chức năng như một đơn vị “truyền thông chính phủ” một cách rõ ràng. Một trong những chức năng của một đơn vị truyền thông chính phủ là xây dựng và tham mưu cho lãnh đạo chiến lược, kế hoạch truyền thông CSNL, công tác nâng cao năng lực cán bộ truyền thông CSNL hay xây dựng mối quan hệ với báo chí.
Ngoài ra, hoạt động truyền thông CSNL hiện nay còn tồn tại khá nhiều vấn đề như thông tin cơ sở (thông tin “đầu vào”) trong hoạch định CSNL hiện nay còn thiếu và yếu, đặc biệt trong bối cảnh CSNL liên quan chặt chẽ và có ảnh hưởng trực tiếp tới nhiều ngành khác như tài nguyên môi trường, giao thông, quy hoạch hạ tầng... Việc truyền thông chính sách nói chung và CSNL thiếu chiến lược dài hạn, nhất quán, chưa có sự phối hợp chặt chẽ của cơ quan hoạch định chính sách với các cơ quan truyền thông báo chí.
Hiện nay, một CSNL đang nhận được sự quan tâm của các bên liên quan cũng như đông đảo công chúng truyền thông là Dự thảo Đề án Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn tới năm 2045 (gọi tắt là dự thảo Quy hoạch điện VIII).
Chúng tôi thực hiện khảo sát sơ bộ tại các kênh truyền thông của Bộ Công Thương, bằng công cụ tìm kiếm Google nâng cao với từ khóa “congthuong.vn” và “Quy hoạch điện VIII”, kết quả là có 8 bài viết từ ngày 8/7/2020 đến ngày 23/3/2021, trong đó chủ yếu thông tin về hoạt động tổ chức lấy ý kiến đóng góp vào dự thảo Quy hoạch điện VIII. Với các từ khóa “moit.com.vn” và “Quy hoạch điện VIII”, có 5 bài viết trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Công Thương từ 14/8/2020 đến 24/2/2021.
Khảo sát sơ bộ trên công cụ tìm kiếm Google với kênh Truyền hình Công thương cho thấy chỉ có 4 chương trình về Quy hoạch điện VIII được kênh truyền hình này sản xuất trong khoảng thời gian từ 24/8/2020 đến 8/3/2021, trong đó các chương trình này khi được đăng tải trên kênh Youtube.com thì có khoảng từ 24 đến 108 lượt xem (tính đến ngày 31/3/2021).
Có thể thấy, số lượng tin bài truyền thông chủ động từ phía các nhà hoạch định chính sách còn khá hạn chế, ít thu hút được sự quan tâm của công chúng và các bên liên quan, với cách truyền tải thông tin khá truyền thống, thiếu các hình ảnh đồ họa (infographic), dữ liệu đa phương tiện thể hiện trực quan sinh động các nội dung mang tính chuyên môn, kỹ thuật cao trong dự thảo quy hoạch quan trọng trong lĩnh vực năng lượng này của quốc gia.
Từ góc độ cơ quan quản lý báo chí và cơ quan báo chí
Báo chí là đơn vị trung gian giữa công chúng và cơ quan hoạch định chính sách, tạo ra kênh đối thoại trực tiếp hoặc gián tiếp giữa cơ quan hoạch định chính sách và công chúng. Theo kết quả khảo sát được thực hiện với 40 phóng viên, biên tập viên của các cơ quan báo chí lớn tại Việt Nam năm 2019, công tác TTCS chưa đạt được những hiệu quả mong muốn, do còn tồn tại những rào cản về: “cơ hội tham gia vào quá trình chính sách của người dân còn hạn chế” (87,5%), “năng lực của đội ngũ TTCS còn hạn chế” (85%) và “năng lực của đội ngũ hoạch định chính sách còn hạn chế” (82,5%). Ngoài ra, những rào cản khác được chỉ ra bao gồm: “thiếu chiến lược, mô hình TTCS” (70%), “nội dung thông tin về chính sách chưa tốt” (70%), “ứng dụng và triển khai công nghệ mới chậm so với tốc độ phát triển” (60%) và “thiếu nguồn lực cho TTCS” (55%).
Hoạt động của các cơ quan truyền thông hiện vẫn mang nặng tính chất tuyên truyền, phổ biến chính sách, áp đặt một chiều trong truyền tải thông tin. Việc nắm bắt đối tượng công chúng của chủ thể truyền thông CSNL chưa hiệu quả khiến công tác truyền thông chính sách chưa có hiệu quả cao. Thông tin về quá trình thực thi CSNL còn khá một chiều, thiên về tuyên truyền mặt tốt, mặt tích cực khiến cho thông tin truyền tải trong xã hội còn thiếu khách quan, chân thực. Các kênh truyền thông chính thống còn khá hạn chế phản ánh ý kiến đánh giá phản biện của người dân.
Cuối cùng, môi trường truyền thông chính sách nói chung và CSNL nói riêng ở nước ta chưa thực sự thuận lợi. Các quy định, chế tài trong hoạt động truyền thông chính sách còn cũ so với sự vận động của lĩnh vực truyền thông và lĩnh vực chính sách công.
Việc ứng dụng kỹ thuật, công nghệ hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông còn nhiều bất cập cũng như sự hạn chế và thiếu tính đa dạng của các kênh truyền thông và phương thức truyền thông.
Giải pháp, kiến nghị
Trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng vào quá trình toàn cầu hóa, sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ truyền thông cũng như năng lực tiếp nhận chính sách của công chúng – đối tượng truyền thông, công tác TTCS cần có những điều chỉnh, cập nhật nhanh chóng cả về nhận thức và tổ chức bộ máy của các cơ quan chủ quản để thích ứng với sự phát triển của xã hội, góp phần xây dựng chính phủ kiến tạo, dân chủ, minh bạch.
Bộ Công Thương và các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng cần quan tâm hơn tới việc truyền thông chính sách năng lượng theo các chu trình chính sách công, huy động và phát huy vai trò của cơ quan quản lý ngành trong việc thực hiện TTCS. Cụ thể, Bộ Công Thương thành lập cơ quan truyền thông cấp vụ đủ mạnh về tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ.
Cơ quan này hoạt động theo mô hình truyền thông chính phủ, trong đó quan trọng nhất là thành lập bộ phận tham mưu, nghiên cứu và xây dựng chiến lược truyền thông chính sách theo các khâu trong chu trình chính sách. Đơn vị này còn có nhiệm vụ xây dựng mối quan hệ với các cơ quan báo chí, những người có tầm ảnh hưởng trên mạng xã hội và phối hợp với các đơn vị chuyên môn của Bộ cung cấp thông tin “đầu vào” một cách đầy đủ và toàn diện nhất nhằm thực hiện công tác truyền thông CSNL một cách hiệu quả.
Ngoài ra, đơn vị truyền thông cấp vụ của Bộ Công Thương còn có vai trò điều phối thông tin trên các phương tiện truyền thông của Bộ (Cổng thông tin điện tử và các loại hình báo chí thuộc Bộ), phát triển theo hướng mới và hiện đại hơn, chuyển dịch từ mô hình tuyên truyền sang mô hình tương tác. Một chức năng quan trọng khác là tham mưu cho lãnh đạo Bộ xây dựng các gói nội dung, các chương trình đào tạo cho cán bộ, phóng viên báo chí nhằm quản lý báo chí truyền thông trong lĩnh vực CSNL một cách khoa học và chuyên nghiệp.
Đơn vị truyền thông thuộc Bộ cũng cần đề xuất thực hiện nghiên cứu đối tượng truyền thông, thói quen sử dụng phương tiện truyền thông của họ và xây dựng các kênh truyền thông tương tác nhằm tiếp nhận phản hồi của dư luận xã hội về CSNL. Đơn vị này cũng cần thực hiện công tác xử lý khủng hoảng và theo dõi, lập kế hoạch xử lý vấn đề tin giả liên quan đến CSNL.
Ngoài ra, các đơn vị hoạch định chính sách cần đầu tư ngân sách cho các chương trình truyền thông chính sách công nói chung và CSNL nói riêng, đảm bảo công tác truyền thông được thực hiện bài bản, có chiến lược và đảm bảo hiệu quả.
Đối với các cơ quan báo chí, thực hiện các hoạt động nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ báo chí tham gia chu trình TTCS nói chung như các kiến thức, quy định của pháp luật về chính sách công, chu trình xây dựng chính sách công, dư luận xã hội, truyền thông xã hội, truyền thông sáng tạo và các thông tin nghiên cứu về công chúng, đối tượng của TTCS.
Về lĩnh vực CSNL, kiến nghị nâng cao kiến thức về ngành công nghiệp, khoa học năng lượng, năng lượng tái tạo, CSNL, phối hợp với các tổ chức nước ngoài, đại sứ quán, các tập đoàn hoạt động trong lĩnh vực năng lượng tổ chức các khóa học tập, tham quan thực tế tại các dự án năng lượng trong và ngoài nước và phỏng vấn chuyên gia quốc tế để nâng cao kiến thức trong lĩnh vực năng lượng và chính sách năng lượng, xây dựng một đội ngũ phóng viên có những am hiểu nhất định về công việc phân tích, đánh giá CSNL.
Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương và các bộ ban ngành có liên quan để xây dựng chiến lược TTCS theo các khâu trong chu trình chính sách. Các cơ quan báo chí cần đào tạo cho đội ngũ nhà báo thực hiện công tác TTCS các kỹ năng về giải thích, phân tích chính sách nói chung và CSNL nói riêng, dự báo các tác động của chính sách, nghiên cứu và phân tích văn bản, kỹ năng phân biệt tin giả.
Các cơ quan báo chí cần xây dựng và phát triển mối quan hệ với các chuyên gia, các bộ ban ngành (Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường), các chuyên gia, nhà khoa học tại các viện nghiên cứu, các nhà đầu tư nhằm kịp thời nhận được các nguồn thông tin chính xác, đầy đủ. Ngoài ra, cần quan tâm tới ý kiến của các tổ chức xã hội và người dân (đặc biệt là những người sinh sống tại các địa điểm nằm trong quy hoạch xây dựng các công trình về năng lượng) nhằm thông tin về CSNL theo ngôn ngữ báo chí với góc nhìn báo chí đa chiều.
Các cơ quan báo chí cần cung cấp thông tin dễ hiểu, đầy đủ, chính xác và đa chiều về CSNL, đồng thời ứng dụng công nghệ truyền thông hiện đại, đặc biệt các công nghệ trên nền tảng số và có tính tương tác cao để dễ tiếp cận với công chúng và có thể tiếp nhận được phản hồi của công chúng về CSNL nhằm tăng cường sự tham gia của công chúng trong chu trình chính sách, nhằm xây dựng xã hội dân chủ, minh bạch và bình đẳng./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Người làm báo điện tử ngày 14.05.2021
Bài liên quan
- Truyền thông về văn hoá truyền thống trên báo mạng điện tử qua chiến lược kể chuyện đa nền tảng
- Báo chí cách mạng Việt Nam trong kỷ nguyên số dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
- Báo chí phản biện xã hội để tạo sự đồng thuận
- Hoạt động truyền thông của các câu lạc bộ tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền và Học viện Ngoại giao
- Thực trạng và giải pháp tạo nguồn thu cho báo mạng điện tử ở Việt Nam
Xem nhiều
-
1
[Video] Khai mạc Hội Báo toàn quốc 2025
-
2
Đồng chí GS,TS Nguyễn Xuân Thắng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng uỷ, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền lần thứ XII, nhiệm kỳ 2025 - 2030
-
3
Hoạt động truyền thông của các câu lạc bộ tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền và Học viện Ngoại giao
-
4
Phê phán luận điệu xuyên tạc các nghị quyết “bộ tứ trụ cột”
-
5
Phát huy vai trò của người có uy tín ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”
-
6
Thái độ tiếp nhận của sinh viên đối với các sản phẩm truyền thông tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo trên nền tảng Tiktok
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Quản trị thông tin chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh nền kinh tế phục hồi sau đại dịch và chuyển mình mạnh mẽ trong giai đoạn chuyển đổi số, việc truyền thông hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trở thành một yêu cầu cấp thiết. Báo mạng điện tử với ưu thế về tốc độ, khả năng cập nhật và tính tương tác đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc định hướng nhận thức và hành vi của cộng đồng doanh nghiệp. Bài viết này phân tích thực trạng quản trị thông tin về chính sách hỗ trợ DNNVV trên một số báo mạng điện tử chuyên ngành tài chính - đầu tư ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra những điểm mạnh, hạn chế và đề xuất giải pháp quản trị thông tin, nâng cao hiệu quả truyền thông chính sách kinh tế - cụ thể là chính sách hỗ trợ DNNVV trên báo mạng điện tử, trong thời gian tới.
Truyền thông về văn hoá truyền thống trên báo mạng điện tử qua chiến lược kể chuyện đa nền tảng
Truyền thông về văn hoá truyền thống trên báo mạng điện tử qua chiến lược kể chuyện đa nền tảng
Bối cảnh toàn cầu hóa và kỷ nguyên số ngày nay đang mở ra nhiều không gian hơn bao giờ hết cho sự giao thoa và tiếp biến của các nền văn hóa trên toàn cầu. Trong điều kiện đó, việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống đang đứng trước nhiều thách thức, đòi hỏi phải có sự đổi mới về tư duy, phương pháp, cách thức thực hiện. Truyền thông đóng vai trò rất quan trọng trong việc gìn giữ, lan tỏa và các giá trị văn hóa truyền thống, làm cho những giá trị ấy luôn có sức sống qua các thế hệ cộng đồng. Bối cảnh mới hiện nay đòi hỏi những phương thức truyền thông mới, có khả năng kết nối cảm xúc và thích ứng với thói quen tiếp nhận đa dạng của công chúng hiện đại. Chiến lược kể chuyện đa nền tảng (transmedia storytelling) nổi lên như một giải pháp hiệu quả, cho phép truyền tải giá trị văn hóa thông qua hệ sinh thái nội dung phong phú, kết nối nhiều nền tảng và phương tiện truyền thông khác nhau.
Báo chí cách mạng Việt Nam trong kỷ nguyên số dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
Báo chí cách mạng Việt Nam trong kỷ nguyên số dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số diễn ra sâu rộng, báo chí cách mạng Việt Nam đứng trước yêu cầu đổi mới toàn diện, hiện đại hóa nhưng vẫn giữ vững bản chất cách mạng. Vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng không chỉ là đòi hỏi mang tính thời sự, mà còn là cơ sở lý luận cho việc tiếp tục xây dựng nền báo chí cách mạng Việt Nam hiện đại, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Báo chí phản biện xã hội để tạo sự đồng thuận
Báo chí phản biện xã hội để tạo sự đồng thuận
Báo chí không chỉ là phương tiện thông tin đại chúng quan trọng mà còn là công cụ phản biện xã hội hiệu quả. Báo chí phản ánh tiếng nói, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tạo dư luận tích cực và thúc đẩy sự đồng thuận xã hội. Trong bối cảnh đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, vai trò của báo chí trong việc phản biện xã hội càng trở nên quan trọng, góp phần tăng cường và củng cố vững chắc niềm tin giữa Đảng với nhân dân.
Hoạt động truyền thông của các câu lạc bộ tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền và Học viện Ngoại giao
Hoạt động truyền thông của các câu lạc bộ tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền và Học viện Ngoại giao
Trong bối cảnh giáo dục đại học hiện đại, các câu lạc bộ sinh viên không chỉ là môi trường thực hành kỹ năng mà còn là kênh quan trọng để xây dựng và lan tỏa thương hiệu của cơ sở đào tạo. Hoạt động truyền thông của câu lạc bộ được triển khai qua nhiều hình thức tương tác trực tuyến và trực tiếp, đóng vai trò kết nối giữa sinh viên, giảng viên và các đối tác bên ngoài. Bài viết này phân tích hoạt động truyền thông của các câu lạc bộ của sinh viên tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền và Học viện Ngoại giao dựa trên các lý thuyết truyền thông đại chúng, truyền thông tổ chức và quan hệ công chúng, nhằm làm rõ mối quan hệ giữa chủ thể, nội dung và phương thức triển khai truyền thông. Trên cơ sở khảo sát thực tiễn và phỏng vấn chuyên sâu, bài viết đề xuất giải pháp hoàn thiện quy trình truyền thông, nâng cao năng lực chuyên môn và tăng cường hợp tác liên tổ chức để nâng cao chất lượng thông điệp, mở rộng phạm vi tiếp cận và đảm bảo tính bền vững cho cộng đồng câu lạc bộ sinh viên.
Bình luận