Truyền thông đối ngoại: Nhân tố quan trọng góp phần vào sự phát triển của Hà Nội
Vai trò của truyền thông đối ngoại
Truyền thông đối ngoại có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội mỗi quốc gia, nhất là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, tác động nhiều chiều, sâu rộng đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Xã hội càng phát triển, yêu cầu thông tin càng đa dạng, phong phú. Ngược lại, sự phát triển của thông tin thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Công tác truyền thông đối ngoại thực hiện hai chiều thông tin. Một là, thông tin về tình hình trong nước ra nước ngoài. Đối với công tác này, nội dung thông tin thay đổi tùy thuộc vào từng địa bàn, từng giai đoạn phát triển của quốc gia đó, cũng như từng đối tượng và yêu cầu đặt ra tại từng thời điểm để xác định nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm phù hợp. Hai là, thông tin về tình hình thế giới, khu vực vào trong nước. Với tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin và trình độ dân trí ngày càng cao, người dân có khả năng tiếp cận trực tiếp với mọi thông tin trên thế giới thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, do đó, truyền thông đối ngoại có nhiệm vụ hết sức quan trọng là đáp ứng nhu cầu thông tin của người dân về tình hình quốc tế và đường lối, chính sách đối ngoại của đất nước.
Đối với Việt Nam, công tác truyền thông đối ngoại luôn có vị trí quan trọng trong hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Do đó, ngay từ những ngày đầu đấu tranh giành độc lập cho đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã rất coi trọng công tác truyền thông đối ngoại. Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 10-5-1962, của Bộ Chính trị, về công tác tuyên truyền đối ngoại đã xác định công tác tuyên truyền đối ngoại là một bộ phận của cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng của nước ta trên phạm vi toàn thế giới; phục vụ chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Tiếp đó, nhiều văn bản quan trọng khác của Đảng và Nhà nước đã được ban hành, thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động thông tin truyền thông đối ngoại qua các thời kỳ phát triển, như: Chỉ thị số 11-CT/TW, ngày 13-6-1992, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại; Chỉ thị số 10/2000/-CT/TTg, ngày 26-4-2000, của Thủ tướng Chính phủ, về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại; Chỉ thị số 26-CT/TW, ngày 10-9-2008, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X, về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới… Đặc biệt, ngày 14-2-2012, Bộ Chính trị khóa XI đã ra Kết luận số 16-KL/TW về chiến lược thông tin đối ngoại giai đoạn 2011 - 2020, xác định rõ thông tin đối ngoại là một bộ phận rất quan trọng trong công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng ta, là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài. Thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 368/QĐ-TTg, ngày 28-2-2013, phê duyệt Chương trình hành động của Chính phủ, về thông tin đối ngoại giai đoạn 2013 - 2020. Các văn bản trên là minh chứng cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc khẳng định tầm quan trọng của truyền thông đối ngoại trong giai đoạn mới. Bởi:
Xét về lợi ích quốc gia, thực hiện tốt công tác truyền thông đối ngoại sẽ giúp thế giới hiểu hơn về đất nước, con người, về những giá trị văn hóa, vật chất, tinh thần của dân tộc Việt Nam; nâng cao hình ảnh, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; góp phần thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế và hội nhập quốc tế của đất nước ta, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài... Thực hiện tốt công tác truyền thông đối ngoại còn góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh hiện nay, việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do, tham gia nhiều “sân chơi” mới, có nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với sự phát triển của kinh tế, vị trí của truyền thông đối ngoại càng đóng vai trò quan trọng.
Công tác truyền thông đối ngoại của thành phố Hà Nội trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt các nội dung được nêu trong Kết luận số 16-KL/TW, ngày 14-02-2012, của Bộ Chính trị, về “Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011 - 2020”; Chỉ thị số 21/CT-TTg, ngày 6-8-2010, của Thủ tướng Chính phủ, về “Triển khai thực hiện Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011 - 2020”; Nghị định số 72/NĐ-CP, ngày 07-9-2015, của Chính phủ, về “quản lý hoạt động thông tin đối ngoại”; Chỉ thị số 14-CT/TU, ngày 12-6-2009, của Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội, về “Tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới”; Thông tri số 14-TTr/TU, ngày 20-01-2014, của Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội, về “Tiếp tục đổi mới và thực hiện chiến lược phát triển thông tin đối ngoại trên địa bàn Thủ đô từ nay đến năm 2020”; Kế hoạch số 80-KH/TU, ngày 26-2-2018, của Thành ủy Hà Nội, về “Công tác thông tin đối ngoại thành phố Hà Nội giai đoạn 2018 - 2020”…; và các kế hoạch, chương trình hành động, đề án liên quan đến công tác thông tin đối ngoại trên cơ sở quán triệt đường lối, quan điểm, chính sách đối ngoại theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; những năm qua, công tác truyền thông đối ngoại của thành phố Hà Nội tiếp tục được tăng cường và củng cố, đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần tuyên truyền chủ trương và các hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong phát triển kinh tế - xã hội, đấu tranh bảo vệ chủ quyền và các lợi ích chính đáng; nâng cao hình ảnh, vị thế của Việt Nam nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng trên trường quốc tế; tăng cường nguồn lực cho phát triển, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hằng năm, thành phố luôn xác định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc triển khai nhiệm vụ tuyên truyền đối ngoại; phối hợp chặc chẽ với các kênh thông tin đối ngoại quốc gia trong việc tuyên truyền quảng bá hình ảnh của Thủ đô ra ngoài nước. Các hoạt động truyền thông đối ngoại của thành phố cũng ngày càng bám sát định hướng chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đồng thời bám sát được chủ trương, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, lịch sử con người Thủ đô; đấu tranh phản bác những thông tin sai sự thật, luận điệu sai trái của các thế lực cơ hội, thù địch, góp phần tích cực vào việc giữ gìn ổn định chính trị - xã hội, phục vụ nhiệm vụ bảo vệ và phát triển thành phố Hà Nội nói riêng và đất nước nói chung trong tình hình mới.
Hiện nay, thành phố Hà Nội có 14 cơ quan báo chí với 25 ấn phẩm và 7 tạp chí, trong đó 9 cơ quan báo chí đã xây dựng trang thông tin điện tử, gồm: Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội, Báo An ninh Thủ đô, Báo Hà Nội mới, Báo Lao động Thủ đô, Báo Phụ nữ Thủ đô, Báo Pháp luật và Xã hội, Báo Người Hà Nội, Báo Màn ảnh sân khấu, Báo Thể thao ngày nay. Thành phố cũng đã xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của 6 kênh truyền thông đối ngoại chủ lực, gồm Báo Hà Nội mới, Báo Kinh tế đô thị, Báo An ninh Thủ đô, Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội, Trang tin điện tử của Sở Ngoại vụ, Cổng thông tin điện tử của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị thành phố. Trên địa bàn thành phố Hà Nội còn có hàng trăm cơ quan báo chí trung ương, văn phòng đại diện các cơ quan báo chí trong và ngoài nước, các cơ quan ngoại giao trung ương, hàng nghìn tổ chức nước ngoài… Hoạt động của các cơ quan truyền thông báo chí đã có sự chuyển biến rõ rệt về cả tổ chức, nội dung, hình thức, loại hình, cũng như quy mô, phương tiện kỹ thuật và ảnh hưởng xã hội, bảo đảm đưa thông tin tới người nước ngoài ở Việt Nam, tới cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và tới bạn bè quốc tế một cách nhanh nhất, góp phần thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế. Hệ thống các cơ quan báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình quốc gia, như Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, một số báo, tạp chí và nhà xuất bản lớn, như Tạp chí Cộng sản, Báo Nhân dân, Tạp chí Đối ngoại của Ban Đối ngoại Trung ương, Tạp chí Thông tin đối ngoại của Ban Tuyên giáo Trung ương,… cùng nhiều sách, báo, tạp chí của các bộ, ngành,... đã thực hiện tốt vai trò vừa là cơ quan lý luận và ngôn luận của tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, là diễn đàn của nhân dân, đồng thời là cơ quan giữ vai trò nòng cốt cho công tác tuyên truyền đối ngoại; từng bước tổ chức việc đưa thông tin của hệ thống này lên mạng internet, kịp thời cập nhật thông tin ra thế giới, phản ánh đầy đủ, kịp thời, toàn diện mọi mặt hoạt động của đất nước, góp phần tạo môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế; quảng bá hình ảnh, tiềm năng kinh tế của đất nước và doanh nghiệp; mở rộng hợp tác, mở rộng thị trường và giảm tranh chấp thương mại; vận động người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp xây dựng đất nước; hỗ trợ lực lượng ngoại giao kinh tế thực hiện nhiệm vụ; thông tin trung thực về tình hình Việt Nam, góp phần đấu tranh, phản bác những quan điểm, thông tin sai trái của các thế lực thù địch.
Thành phố Hà Nội cũng xác định ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin là nhiệm vụ ưu tiên chiến lược của Thủ đô, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động truyền thông đối ngoại trong bối cảnh thông tin bùng nổ ngày càng mạnh mẽ; tạo nền tảng và động lực để phát triển kinh tế - xã hội, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô. Năm 2010, trước sự phát triển mạnh mẽ của mạng lưới thông tin điện tử, lãnh đạo thành phố đã giao Sở Thông tin và Truyền thông chủ trì phối hợp với các đơn vị thành lập Tổ An ninh mạng nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các website, trang tin điện tử và một số blog cá nhân có nội dung thông tin xuyên tạc tình hình đất nước; xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; xuyên tạc và phủ nhận lịch sử dân tộc; chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và tình hữu nghị của nhân dân ta với nhân dân các nước; tuyên truyền kích động, lôi kéo nhiều người tham gia biểu tình trái pháp luật, kích động dư luận, thậm chí kêu gọi mọi người tham gia biểu tình, tụ tập đông người, gây mất trật tự công cộng, làm ảnh hưởng tình hình an ninh của thành phố và hình ảnh của Thủ đô trong con mắt cộng đồng quốc tế.
Bên cạnh đó, là đơn vị thường trực Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại thành phố Hà Nội, Sở Thông tin và Truyền thông cũng đã chủ động tham mưu với Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt động tuyên truyền hằng năm, đề xuất kinh phí thực hiện và triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao; tiến hành khảo sát công tác truyền thông đối ngoại bằng tiếng Anh trên Cổng/Trang thông tin điện tử của các đơn vị, qua đó tăng cường đầu tư có trọng tâm, trọng điểm đối với kênh thông tin đối ngoại chủ lực hiện có của thành phố và Cổng/Trang thông tin điện tử của một số đơn vị; phối hợp với các kênh thông tin đối ngoại quốc gia tổ chức tuyên truyền thông tin đối ngoại của thành phố; đẩy mạnh, nâng cao chất lượng thông tin về các hoạt động đối ngoại của Thủ đô (thông tin về các nước, các địa phương, đối tác nước ngoài đến nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội; về việc thiết lập quan hệ giữa thành phố Hà Nội với các thủ đô, thành phố lớn trong khu vực và thế giới); tiếp tục phối hợp với Hệ Phát thanh Đối ngoại quốc gia (VOV5) của Đài Tiếng nói Việt Nam duy trì việc tuyên truyền về Thủ đô Hà Nội trên sóng phát thanh và trên trang web vovworld.vn bằng 12 thứ tiếng; tiếp tục sử dụng các chương trình tọa đàm, phim tài liệu, các tin, bài do Kênh VTC10 của Đài Truyền hình Kỹ thuật số (VTC) và VOV5 của Đài Tiếng nói Việt Nam sản xuất, đăng tải lại trên các cổng thông tin điện tử hoặc các trang web giới thiệu về Thủ đô Hà Nội do thành phố hoặc các đơn vị liên quan chủ trì…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác truyền thông đối ngoại của thành phố vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần khắc phục, đó là nhận thức về thông tin đối ngoại vẫn chưa đầy đủ, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong việc triển khai các hoạt động thông tin đối ngoại. Công tác theo dõi, nắm bắt, dự báo tình hình còn chưa kịp thời, lượng thông tin còn mỏng; hình thức tuyên truyền còn chưa thực sự phù hợp với nhiều đối tượng; việc kết hợp giữa thông tin đối ngoại với thông tin đối nội, giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân, giữa các cơ quan Trung ương với địa phương, giữa trong nước với các địa bàn nước ngoài vẫn còn thiếu đồng bộ; chưa tận dụng hiệu quả công nghệ, phương tiện truyền thông hiện đại...
Để góp phần nâng cao hiệu quả truyền thông đối ngoại của Hà Nội
Có thể nói, thế giới đang bước vào thời kỳ thay đổi nhanh chóng với những biến đổi về chất gắn liền cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật mới và cạnh tranh gay gắt về địa - chính trị. Năm 2020, bối cảnh khu vực và quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường, tác động trực tiếp đến môi trường an ninh và phát triển của nước ta. Nhiệm vụ tạo môi trường hòa bình, ổn định trong bối cảnh đất nước tăng cường hội nhập quốc tế đang đặt ra những yêu cầu mới đối với công tác truyền thông đối ngoại trong việc làm cho thế giới hiểu nhiều hơn, rõ hơn về Việt Nam nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng, để qua đó cùng nhau tìm kiếm cơ hội hợp tác, đầu tư, cùng phát triển. Theo đó, nhu cầu cung cấp thông tin từ Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng ra thế giới và đưa thế giới đến với Việt Nam cũng như Hà Nội ngày càng thường xuyên và cấp thiết. Để tiếp tục nâng cao chất lượng công tác truyền thông đối ngoại của Hà Nội, cần xác định một số nhiệm vụ:
Thứ nhất, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả; thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp thông tin, tuyên truyền trên cơ sở xây dựng hình thức truyền thông phù hợp, để thông tin có thể đến được với công chúng, kể cả công chúng trong nước và công chúng ngoài nước một cách nhanh nhất và chính xác; tiếp tục chủ trì, phối hợp quảng bá, giới thiệu hình ảnh đất nước Việt Nam tươi đẹp, giàu truyền thống… ra nước ngoài thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và sản phẩm thông tin đối ngoại.
Thứ hai, xây dựng kênh truyền hình đối ngoại phát bằng tiếng nước ngoài với thời lượng 24/24 giờ, trong đó xác định tiếng Anh là ngôn ngữ chính và tùy từng địa bàn cụ thể cần sử dụng tiếng địa phương, với chất lượng quốc tế để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người xem trong và ngoài nước.
Thứ ba, xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng lực lượng cán bộ làm công tác truyền thông đối ngoại một cách bài bản. Dù ở vị trí nào, người làm truyền thông đối ngoại cũng cần có sự am hiểu sâu sắc về văn hóa của nước mình và đối tác, theo đúng phương châm “biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác ngoại giao nhân dân - một trong những nguồn lực chủ yếu góp phần làm nên sự thành công của công tác tuyên truyền thông tin đối ngoại, nhất là trong việc thu hút sự ủng hộ và yêu mến của cộng đồng quốc tế dành cho Việt Nam.
Thứ năm, đẩy mạnh hơn nữa các kênh truyền thông trong nước trên cơ sở phát huy thế mạnh của công nghệ thông tin, các phương tiện truyền thông hiện đại, nhất là internet, phát thanh, truyền hình để nâng cao chất lượng công tác truyền thông đối ngoại; ứng dụng hiệu quả vai trò của mạng xã hội phục vụ công tác truyền thông, thông tin đối ngoại kịp thời, sâu rộng đến cộng đồng xã hội; đẩy mạnh các kênh giao tiếp/tiếp xúc trực tiếp, như kênh Nhà nước, Chính phủ, trong đó cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài là một kênh quan trọng để truyền thông về đất nước, con người Việt Nam.
Thứ sáu, đẩy mạnh phát triển phương thức truyền tải thông tin truyền thông đa phương tiện, bởi với phương thức truyền thông đa phương tiện, công chúng có thể thu nhận thông tin bằng cả văn bản, hình ảnh, cũng như âm thanh, làm thay đổi cách tiếp cận thông tin của công chúng, nhất là đối với thế hệ trẻ - thế hệ nhạy bén nhất đối với khoa học và công nghệ. Với cách tiếp cận này, công chúng được tiếp nhận thông tin sẽ thỏa mãn các giác quan khác nhau, tạo nên hiệu ứng tương tác mạnh mẽ nhất so với các loại hình truyền thông truyền thống.
Thứ bảy, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí, quan tâm chế độ, chính sách đối với các cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại./.
____________________-
Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 27.11.2020
Minh Khôi
Nguồn: tapchicongsan.org.vn
Xem nhiều
- 1 Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại trong lòng dân tộc Việt Nam và thế giới
- 2 Phương thức kiểm soát quyền lực phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công
- 3 Tăng cường giáo dục thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
- 4 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- 5 Tạo sự thống nhất cao trong toàn hệ thống chính trị về chủ trương tinh gọn tổ chức bộ máy trong tình hình mới; phấn đấu thực hiện mục tiêu tăng trưởng hai con số; chuẩn bị tốt đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng*
- 6 Đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động của các tạp chí Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người chính là bảo đảm và thúc đẩy quyền con người. Đây là chủ trương nhất quán của Đảng ta được thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ; được cụ thể hóa trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, và gần đây nhất là trong Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”.
Tăng cường ứng dụng AI vào hoạt động xuất bản ở Việt Nam hiện nay
Tăng cường ứng dụng AI vào hoạt động xuất bản ở Việt Nam hiện nay
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo ra sự biến đổi lớn đặt ra yêu cầu phải chuyển đổi số các mặt hoạt động để bắt kịp sự tiến bộ của thời đại. Đây đang là vấn đề cấp bách và cần thiết của Việt Nam hiện nay. Hoà mình vào dòng chảy đó, ngành Xuất bản cũng có những thay đổi để theo kịp thời đại mới. Ứng dụng công nghệ số là bước phát triển tất yếu của ngành Xuất bản không chỉ do sự thay đổi cách đọc của độc giả gắn với các thiết bị điện tử thông minh mà còn bởi cả ở quy trình sáng tạo tác phẩm, biên tập, in ấn và phát hành đều phải hướng đến ứng dụng AI vào quy trình hoạt động. Tuy vậy, sự phát triển của khoa học kỹ thuật vừa là cơ hội nhưng đồng thời cũng là thách thức lớn với ngành Xuất bản. Các nhà xuất bản, và cụ thể là các biên tập viên, cần phải nhanh chóng nắm bắt được kỹ năng sử dụng AI để phục vụ cho công tác xuất bản là nhằm phục vụ độc giả tốt nhất trong tương lai gần.
Xu hướng tổ chức nội dung trên mạng xã hội của cơ quan báo chí hiện nay
Xu hướng tổ chức nội dung trên mạng xã hội của cơ quan báo chí hiện nay
Trong những năm trở lại đây, hoạt động trên mạng xã hội của báo chí ngày càng tích cực và để lại nhiều dấu ấn đặc biệt với bạn đọc. Tuy nhiên, trong năm 2023, lưu lượng truy cập vào các đường “link” tin tức trên mạng xã hội Facebook đã giảm 48% so với năm trước (Theo báo cáo của Viện Báo chí Reuters). Điều này đặt ra một câu hỏi lớn là làm thế nào để báo chí không bị ảnh hưởng bởi xu hướng luôn thay đổi, vừa có thể tiếp cận gần gũi với độc giả vừa đáp ứng đủ các quy định của báo chí nói chung và tôn chỉ mục đích của từng cơ quan đặc thù nói riêng.
Mô hình đo lường giá trị và giải pháp truyền thông thương hiệu
Mô hình đo lường giá trị và giải pháp truyền thông thương hiệu
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến sự ra đời, phát triển của rất nhiều thương hiệu, có những thương hiệu thành công và trường tồn, cũng có những thương hiệu nhanh chóng ra đời hoặc biến mất. Ngày nay, sự quan tâm và hiểu biết về thương hiệu đã ngày càng rõ nét vì sức ảnh hưởng của thương hiệu tới sự tồn tại và phát triển của một công ty, tổ chức. Vậy điều gì quyết định sức mạnh của thương hiệu và sự sống còn của thương hiệu? Trên thực tế có rất nhiều chỉ số ảnh hưởng đến thương hiệu, từ chiến lược kinh doanh đến chiến lược quản trị, chiến lược truyền thông quảng cáo của mỗi tổ chức, doanh nghiệp. Bài báo sẽ tập trung làm các mô hình, yếu tố đo lường giá trị thương hiệu cũng như các giải pháp truyền thông thương hiệu thông qua chiến lược kênh truyền thông và nội dung truyền thông hiệu quả.
Bài viết “Đôi điều suy nghĩ về làm tạp chí lý luận chính trị của Đảng” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với việc rèn luyện nâng cao năng lực và phẩm chất người làm tạp chí lý luận chính trị hiện nay
Bài viết “Đôi điều suy nghĩ về làm tạp chí lý luận chính trị của Đảng” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với việc rèn luyện nâng cao năng lực và phẩm chất người làm tạp chí lý luận chính trị hiện nay
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là nhà lãnh đạo, nhà lý luận, nhà văn hóa và là nhà báo lý luận chính trị. Đồng chí có nhiều năm gắn bó với Tạp chí Cộng sản - cơ quan tạp chí lý luận chính trị của Trung ương Đảng. Trong bài viết “Đôi điều suy nghĩ về làm tạp chí lý luận chính trị của Đảng”, đồng chí đã chia sẻ những điều giản dị mà vô cùng sâu sắc về trọng trách và những yêu cầu, đòi hỏi từ công việc tạp chí. Đó là những chỉ dẫn vô cùng quý báu đối với mỗi cán bộ làm công tác tạp chí lý luận chính trị.
Bình luận