Xây dựng môi trường văn hóa lễ hội lành mạnh

Theo Cục Văn hóa cơ sở, nước ta hiện có 7.966 lễ hội, trong đó phần lớn là lễ hội truyền thống (7.039 lễ hội). Lễ hội truyền thống tồn tại ở mọi không gian văn hóa, từ làng xã thôn bản đến phố phường. Mỗi lễ hội đều có những nét độc đáo riêng, là không gian để tôn vinh, tưởng nhớ một nhân vật (hay tập thể nhân vật) có ảnh hưởng lớn trong lịch sử của cộng đồng.
Nói cách khác, lễ hội chính là hoạt động nhắc nhở người hôm nay nhớ về tổ tiên, ông cha mình với lòng thành kính, biết ơn. Do vậy, môi trường lễ hội truyền thống là nơi tốt nhất để giáo dục văn hóa, lịch sử, lòng tự hào cho thế hệ trẻ, đồng thời tiếp thu các giá trị mới, làm cho văn hóa được tiếp biến, mở rộng, phù hợp với đời sống hiện đại.
Sau những tháng ngày lao động vất vả cực nhọc, con người đến với lễ hội ngoài nhu cầu vui chơi, giải trí, còn là để “nhập thân” vào văn hóa, rồi đến lượt văn hóa làm biến đổi con người, giúp nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi để xây dựng cộng đồng ngày càng tốt đẹp hơn. Lễ hội giống như bảo tàng sống, nơi văn hóa của một cộng đồng dân cư được hồi sinh, được trao truyền từ thế hệ trước đến thế hệ sau.
Nếu các giá trị truyền thống được xem như cái gốc của văn hóa dân tộc thì lễ hội chính là môi trường sinh động nhất để con người có thể bộc lộ, thẩm thấu, tiếp biến, làm phong phú, đẹp đẽ, giàu có thêm cho văn hóa.
Từ góc nhìn như vậy, nếu chúng ta chú trọng đầu tư cho môi trường văn hóa lễ hội, đảm bảo các lễ hội đều được diễn ra đúng nghi thức trên tinh thần nâng niu cái đẹp, cái tinh túy, mang đậm đà bản sắc dân tộc và không ngừng phát huy sự cổ động, tuyên truyền giáo dục cho lớp trẻ, thì người tham gia lễ hội sẽ học hỏi được rất nhiều. Chẳng hạn như học tiền nhân cách ứng xử hài hòa với vạn vật, thiên nhiên và con người; thêm hiểu biết và tự hào về các giá trị nghệ thuật truyền thống như chèo, tuồng, hát xoan, hát bội, múa rối, quan họ…
Tiếc là, dù lễ hội bao chứa một ý nghĩa vô cùng sâu sắc nhưng thực trạng môi trường văn hóa trong các lễ hội truyền thống những năm gần đây bị biến tướng rất nhiều. Dưới ảnh hưởng của kinh tế thị trường, lễ hội đã có những biểu hiện thương mại hóa rõ rệt. Nhiều lễ hội không còn giữ được bản sắc riêng, do chính các địa phương bắt chước nhau, do pha tạp thêm yếu tố tiêu cực, thậm chí phản văn hóa.
Việc đua nhau mở rộng về quy mô khiến một số lễ hội trở nên nặng về hình thức, chủ yếu phô trương để thu hút du khách, mưu cầu lợi nhuận. Tình trạng bạo lực trong tổ chức lễ hội vẫn còn diễn ra. Hiện tượng chặt chém du khách, chen lấn cúng bái, cướp lộc, cướp ấn ngày càng phổ biến. Nạn cờ bạc đỏ đen, các trò chơi dân gian trá hình nhưng thực chất là sát phạt ngày càng gia tăng.
Nhiều dịch vụ như đổi tiền lẻ, buôn bán, môi giới, dịch vụ cũng mọc lên như nấm trong các lễ hội khiến cho môi trường lễ hội ngày càng xô bồ, giá trị vật chất lấn át giá trị văn hóa, đạo đức. Sau lễ hội, môi trường bị ảnh hưởng nặng nề do người dân vứt rác bừa bãi, bẻ cây, chặt cành…
Đáng buồn nhất là người dân địa phương, vốn đóng vai trò chủ thể của lễ hội truyền thống, thì hiện nay ở nhiều nơi, lại bị biến thành khách thể của lễ hội. Không ít lễ hội đã bị sân khấu hóa, kịch bản hóa, tệ hơn là đấu thầu tổ chức dịch vụ lễ hội, thuê các đoàn nghệ thuật truyền thống chuyên nghiệp, thậm chí có địa phương còn thuê cả đoàn văn nghệ hát nhạc trẻ biểu diễn. Người làng đến lễ hội chỉ còn với tư cách là người xem, không phải người trực tiếp tham gia, sáng tạo những giá trị tốt đẹp mà cha ông để lại.
Ở lễ hội xưa, các trò chơi dân gian tổ chức là để người dân trong làng được trải nghiệm, nay thì chủ yếu phục vụ khách thập phương, và phải trả tiền. Chưa kể, những trò chơi dân gian ngày càng ít đi, thay vào đó là các trò chơi hiện đại mang tính sát phạt, cá độ, may rủi. Hiện tượng người đi lễ hội mà không biết lễ hội đó tổ chức để tôn vinh nhân vật nào, có ý nghĩa lịch sử ra sao ngày càng phổ biến.
Xưa kia việc hành lễ, góp công trong lễ hội truyền thống được cả làng cùng chung tay, không phân biệt nhiều ít, chủ yếu để kết nối, sẻ chia, nay có biểu hiện khoa trương, nặng về vật chất. Những bất cập đó khiến cho lễ hội bị dung tục, tầm thường hóa, tính độc đáo, trang trọng, thiêng liêng của nhiều lễ hội bị phai nhạt. Lễ hội truyền thống đứng trước nguy cơ mất dần những vẻ đẹp vốn có, thiếu đi ý nghĩa giáo dục văn hóa, lịch sử cho thế hệ trẻ.
Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân, đầu tiên phải kể đến công tác quản lý lễ hội. Cán bộ quản lý từ cấp cơ sở đến trung ương đôi khi còn lúng túng trong điều hành, quản lý. Các văn bản thông tư hướng dẫn thực hiện trong văn hóa nói chung, lễ hội nói riêng còn chậm và chồng chéo. Một lễ hội khó có thể phát huy được bản sắc nguyên gốc nếu như chính những người tổ chức còn chưa hiểu biết và nắm vững ý nghĩa lịch sử cũng như giá trị đích thực của lễ hội. Nguyên nhân quan trọng tiếp theo là nhận thức hạn chế của người dân về lễ hội truyền thống.
Tình trạng một số nơi bỏ quên việc tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ trẻ cũng như người dân hiểu rõ về giá trị của lễ hội truyền thống, do đó chưa xây dựng được cho cộng đồng một ý thức chuẩn mực khi tham gia vào các lễ hội, để biết ứng xử sao cho văn minh với con người và môi trường tự nhiên. Cũng bởi sự tuyên truyền giáo dục còn xem nhẹ cho nên lòng tin, sự thành kính của người dân đến lễ hội bị giảm sút, đây là điều hết sức báo động.
Muốn xây dựng môi trường văn hóa lễ hội lành mạnh, đòi hỏi cần phải có những giải pháp quyết liệt để thay đổi. Phải bắt đầu từ việc nhận thức lại các giá trị cốt lõi nguyên thủy của lễ hội truyền thống, từ đó có kế hoạch cho việc bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị đó bằng các mô hình vừa phù hợp với đời sống hiện đại vừa giữ gìn các vẻ đẹp văn hóa mà cha ông bao đời đã chọn lọc, tích lũy.
Công tác quản lý lễ hội các cấp cần chấn chỉnh bằng việc nâng cao kiến thức lễ hội truyền thống cho cán bộ ngành văn hóa, chú trọng tuyên truyền đầy đủ các quy định của pháp luật có liên quan đến lễ hội, chủ động uốn nắn các biểu hiện sai lệch khiến cho lễ hội bị biến dạng, để lễ hội thật sự là một hoạt động văn hóa thu hút người dân, góp phần vào sự phát triển của địa phương.
Trong khâu tổ chức cần được tính toán kỹ việc đưa các hoạt động, trò chơi sao cho bảo đảm ý nghĩa nguyên gốc cổ truyền của lễ hội, các yếu tố mới mang tính thể nghiệm phải hết sức cân nhắc, tránh xa lạ với phong tục, tập quán, văn hóa của người dân địa phương, làm mất bản sắc độc đáo vốn có. Kiên quyết loại bỏ các yếu tố thuần túy thương mại trong không gian lễ hội truyền thống.
Công tác giáo dục ý nghĩa lịch sử văn hóa của lễ hội cho người dân nhất là thế hệ trẻ cần được thường xuyên, liên tục, bằng nhiều hình thức sinh động khác nhau. Trong lễ hội có thể lồng ghép các hoạt động như đón nhận danh hiệu làng văn hóa, gia đình văn hóa tiêu biểu để xây dựng, bồi đắp thêm tình cảm của các thế hệ người dân với văn hóa quê hương mình.
Không nên áp đặt kịch bản lễ hội theo ý chí chủ quan mà phải căn cứ vào tư liệu lịch sử và các hoạt động lễ hội quá khứ để tiếp nối mạch nguồn, thu hút người dân tham gia với vai trò chủ thể của lễ hội. Bởi không ai khác, chính nhân dân là người sáng tạo lễ hội, giữ gìn các giá trị truyền thống của lễ hội đồng thời trao truyền các vẻ đẹp của lễ hội cho các thế hệ tiếp sau.
Nhận thức đúng tầm quan trọng của lễ hội truyền thống trong đời sống sinh hoạt văn hóa của người Việt, chúng ta sẽ có một cách ứng xử thận trọng, phù hợp để có được những không gian văn hóa lễ hội văn minh, giàu ý nghĩa, góp phần hình thành, giáo dục đạo đức, nhân cách, ứng xử, kiến thức văn hóa lịch sử cho người dân, nhất là thế hệ trẻ. Đây cũng là một hoạt động thiết thực nhằm cụ thể hóa các mục tiêu của Chiến lược văn hóa quốc gia tầm nhìn 2030 mà Đảng và Chính phủ đã đề ra./.
Nguồn: Bài đăng trên báo Nhân Dân điện tử ngày 13/01/2023
Bài liên quan
- Một số giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Huyện ủy Tân Uyên, tỉnh Lai Châu đối với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thời gian tới
- Giải pháp đẩy mạnh tuyên truyền phát triển bền vững kinh tế biển ở các tỉnh, thành phố ven biển vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
- Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị tỉnh Yên Bái trong tình hình mới
- Tư tưởng hồi hướng công đức trong giáo lý của đạo Phật – tính hợp lý và giá trị đạo đức
- Tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Ninh trong sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay
Xem nhiều
-
1
Phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Tây Ninh trong tham gia xây dựng Đảng
-
2
Xây dựng chính quyền điện tử tại Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ hướng tới chính quyền số năm 2030: cơ hội và thách thức
-
3
Tương lai cho thế hệ vươn mình
-
4
THÔNG BÁO VỀ VIỆC XUẤT BẢN TẠP CHÍ CHUYÊN ĐỀ TỪ NĂM 2025
-
5
Chi bộ Văn phòng Đảng – Hội đồng trường – Đoàn thể tổ chức thành công Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2025-2027
-
6
Chi bộ Ban Kế hoạch – Tài chính tổ chức thành công Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2025-2027
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Bình đẳng giới trong các cơ quan báo chí và bài học kinh nghiệm
Báo chí đóng vai trò quan trọng trong việc định hình thái độ của xã hội đối với bình đẳng giới, bằng cách vừa làm nổi bật những vấn đề bất bình đẳng đang tồn tại trong xã hội, vừa thúc đẩy sự thay đổi những định kiến hiện có. Cộng đồng phát triển quốc tế đã nhấn mạnh vai trò của truyền thông như một công cụ quan trọng để thúc đẩy bình đẳng giới, cụ thể là Kế hoạch Hành động Bắc Kinh - bản kế hoạch toàn diện nhất nhằm thu hẹp khoảng cách giới trong lĩnh vực truyền thông - đã được 189 quốc gia, trong đó có Việt Nam, thông qua tại Hội nghị Thế giới lần thứ tư về Phụ nữ của Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, bất chấp những cam kết quốc tế này, việc thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực truyền thông vẫn diễn ra chậm chạp, mặc dù đã đạt được những những bước tiến mới, nhưng kết quả vẫn còn rời rạc. Để thúc đẩy vấn đề bình đẳng giới trong báo chí, bài viết này tác giả phân tích một số vấn đề về sự bất bình đẳng trong các cơ quan báo chí – truyền thông trên thế giới, đồng thời đưa ra một số bài học kinh nghiệm từ tổ chức báo chí lớn trên thế giới như The New York Times và Nation Media Group, các chính sách của các quốc gia như Anh, Argentina…Từ đó chỉ ra rằng để thúc đẩy bình đẳng giới trong báo chí, cần có sự hợp tác giữa các bên liên quan, bao gồm chính phủ, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức báo chí.
Một số giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Huyện ủy Tân Uyên, tỉnh Lai Châu đối với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thời gian tới
Một số giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Huyện ủy Tân Uyên, tỉnh Lai Châu đối với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thời gian tới
Trong bối cảnh hiện nay, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh không chỉ là nhiệm vụ chính trị quan trọng mà còn là yếu tố quyết định trong việc xây dựng Đảng, phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống tinh thần của người dân. Trước yêu cầu đó, Huyện ủy Tân Uyên, tỉnh Lai Châu với vai trò là lực lượng lãnh đạo cần chủ động đề ra những giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả triển khai công tác này trong thời gian tới, từ đó củng cố và phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện mục tiêu cao cả vì dân, vì nước, xây dựng huyện Tân Uyên trở thành huyện phát triển khá của tỉnh.
Giải pháp đẩy mạnh tuyên truyền phát triển bền vững kinh tế biển ở các tỉnh, thành phố ven biển vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
Giải pháp đẩy mạnh tuyên truyền phát triển bền vững kinh tế biển ở các tỉnh, thành phố ven biển vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu phát triển bền vững, kinh tế biển đang ngày càng khẳng định vai trò trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Vùng Đồng bằng sông Hồng là khu vực có tiềm năng lớn trong phát triển kinh tế biển nhờ lợi thế về vị trí địa lý, hệ thống cảng biển, nguồn nhân lực dồi dào và hệ sinh thái ven biển phong phú. Tuy nhiên, để khai thác hiệu quả các tiềm năng đó theo hướng bền vững, công tác tuyên truyền đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Bài viết này phân tích thực trạng tuyên truyền phát triển kinh tế biển ở các tỉnh, thành phố ven biển vùng Đồng bằng sông Hồng; đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh hiệu quả tuyên truyền, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045.
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị tỉnh Yên Bái trong tình hình mới
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị tỉnh Yên Bái trong tình hình mới
Trong toàn bộ sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quan trọng, là giải pháp trọng yếu để xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ trong bối cảnh hiện nay. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị tỉnh, trong những năm qua, Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trường Chính trị tỉnh Yên Bái luôn chú trọng công tác này và đây chính là nhiệm vụ trọng tâm của Nhà trường, với mục tiêu là đào tạo, bồi dưỡng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ của Tỉnh có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn trong tình hình mới, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Tư tưởng hồi hướng công đức trong giáo lý của đạo Phật – tính hợp lý và giá trị đạo đức
Tư tưởng hồi hướng công đức trong giáo lý của đạo Phật – tính hợp lý và giá trị đạo đức
Phật giáo là một tôn giáo lớn trên thế giới có khởi nguồn từ đất nước Ấn Độ và du nhập vào Việt Nam đến nay đã gần 20 thế kỷ. Với những giáo lý mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, Phật giáo dễ dàng hòa nhập với đời sống văn hóa, tinh thần người Việt Nam. Một trong những giáo lý có ảnh hưởng và ý nghĩa sâu sắc với các tín đồ đạo Phật và mỗi người dân Việt Nam là tư tưởng hồi hướng công đức. Bài viết này sẽ góp phần làm rõ thuật ngữ “hồi hướng”, “hồi hướng công đức”, nội dung, tính hợp lý và giá trị đạo đức của giáo lý này đối với đời sống tinh thần của người Việt.
Bình luận