An ninh con người
Khái niệm “an ninh con người” lầu đầu tiên được nêu trong Báo cáo Phát triển Con người của Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) năm 1994. Theo UNDP, khái niệm an ninh từ lâu được các nước hiểu theo nghĩa hẹp là an ninh quốc gia, trong phạm vi các mối đe dọa đối với chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hay các vấn đề gắn liền với sự sinh tồn của một quốc gia như chiến tranh, chạy đua vũ trang, phổ biến vũ khí giết người hàng loạt... UNDP cho rằng trong nhận thức về an ninh, các quốc gia đã không lưu tâm tới những mối lo lắng chính đáng về an ninh của những người dân bình thường trong cuộc sống thường nhật của họ. Chính vì vậy, UNDP đã đề xuất khái niệm an ninh con người, với 7 nhân tố cấu thành gồm: an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh sức khỏe, an ninh môi trường, an ninh cá nhân, an ninh cộng đồng và an ninh chính trị.
Nội hàm khái niệm an ninh con người có hai khía cạnh chính cần được làm rõ là: (1) Sự an toàn trước các mối đe dọa triền miên như đói nghèo, bệnh tật và áp bức; (2) Con người cần được bảo vệ trước những biến động bất thường và có hại đối với cuộc sống hàng ngày, bất luận họ ở trong gia đình, nơi công sở hay ở cộng đồng(2).
Ủy ban An ninh con người của Liên Hợp quốc còn đưa ra định nghĩa khác về an ninh con người là phải bảo vệ các giá trị cơ bản quan trọng nhất trong cuộc sống của tất cả mọi người theo hướng tăng cường khả năng tự do lựa chọn và hưởng thụ của con người, nghĩa là bảo vệ con người khỏi những mối đe dọa, các tình huống nguy hiểm và hiện hữu ở khắp mọi nơi trên thế giới. Có nghĩa là, cần phải tạo dựng cùng một lúc các hệ thống chính trị, xã hội, môi trường, kinh tế, quân sự và văn hóa để chúng giúp con người đặt nền móng vững chắc cho sự tồn tại, cho cuộc sống bản thân và bảo vệ nhân phẩm của chính họ.
Ủy ban An ninh con người của Liên Hợp quốc đã đưa ra khuyến nghị 10 điểm: (1) Bảo vệ con người trong các cuộc xung đột bạo lực; (2) Bảo vệ con người khỏi việc phổ biến vũ khí; (3) Trợ giúp về an ninh cho những người đang trên đường di rời khỏi quê hương; (4) Thành lập các quỹ tạm thời về an ninh con người trong các tình huống hậu xung đột; (5) Khuyến khích giao thương công bằng và tiếp cận thị trường đem lại nguồn lợi cho những người nghèo khổ; (6) Bảo đảm mức sống tối thiểu cho con người ở khắp mọi nơi; (7) Chú ý ưu tiên tiếp cận dịch vụ chăm sóc y tế cơ bản và đồng đều; (8) Phát triển một hệ thống các quyền phát minh sáng chế có hiệu quả và công bằng; (9) Bảo đảm quyền con người bằng hệ thống giáo dục phổ cập thông qua các nỗ lực toàn cầu cũng như của từng nước; (10) Bảo vệ sự cần thiết của những chuẩn mực chung toàn cầu về con người, nhưng đồng thời phải tôn trọng tự do lựa chọn của các cá nhân, các dân tộc để duy trì sự đa dạng bản sắc.
Tổng Thư ký Liên Hợp quốc, Kofi Annan đã từng nhấn mạnh an ninh con người không tách rời hòa bình, an ninh và phát triển. Nó không chỉ đơn giản là tình trạng không có xung đột bạo lực, mà còn bao gồm quyền con người, quản lý nhà nước tốt, cơ hội tiếp cận giáo dục và chăm sóc sức khỏe, bảo đảm cho mỗi cá nhân có cơ hội và sự lựa chọn để phát huy được năng lực của mình. Cho đến nay, việc khái quát 7 nhân tố cơ bản cấu thành an ninh con người, tuy vẫn còn có những ý kiến khác nhau, nhưng những nội dung nêu ra hầu như không còn tranh cãi nhiều, ngoại trừ cách thức làm sao để thực hiện việc bảo đảm an ninh con người dựa trên các tiêu chí đó.
An ninh kinh tế, theo tài liệu của Liên Hợp quốc, được hiểu theo nghĩa hẹp, tức là bảo đảm mức thu nhập cơ bản của con người, trong đó vấn đề việc làm đóng vai trò quan trọng. Thực trạng dân số thế giới tăng mạnh, trong khi sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học - công nghệ đã cho ra đời nhiều ngành sản xuất mới đòi hỏi trình độ và tay nghề của người lao động cao hơn rất nhiều (công nghệ thông tin, sinh học, na nô, các ngành công nghiệp và dịch vụ khác...) mà người lao động bình thường không dễ tiếp cận công việc. Các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động ngày càng bị thu hẹp khiến cho sức ép cạnh tranh việc làm ngày càng gia tăng, đe dọa trực tiếp tới an ninh kinh tế của mỗi con người cụ thể.
An ninh lương thựclà một trạng thái mà không lúc nào con người bị đói, có nghĩa là họ có đủ các chất dinh dưỡng cho một cuộc sống hiệu quả, hoạt bát và khỏe mạnh. Tuy nhiên, nguồn lương thực sẵn có chưa phải là điều kiện để bảo đảm an ninh, bởi vì con người vẫn có thể bị chết đói khi lương thực dồi dào. Trong một thế giới hiện đại như ngày nay, hiện vẫn còn hơn 800 triệu người bị đói, Mỹ là quốc gia giàu có nhất thế giới, nhưng những người sống dưới mức nghèo đói vẫn còn hơn 43,1 triệu(3). Vấn đề chủ yếu ở chỗ, việc phân phối lương thực kém hiệu quả và con người thiếu khả năng thanh toán. Qua đó có thể thấy ngoài nhân tố ảnh hưởng của thiên tai đối với khả năng sản xuất lương thực, các chính sách và trình độ quản lý kinh tế của các chính phủ cũng đóng góp một phần không nhỏ vào việc bảo đảm nguồn cung cấp lương thực cũng như thu nhập cho người dân.
An ninh sức khỏe là một trong những nhân tố quan trọng và trực tiếp nhất của an ninh con người. Với một người bị ốm yếu, nhất là bị các chứng bệnh nan y luôn có cảm giác thiếu an toàn, khiến nhận thức “sức khỏe là vốn quý nhất của con người” đã trở nên phổ biến. Ở các nước đang phát triển, mỗi năm có hàng triệu người chết do các căn bệnh truyền nhiễm và liên quan đến ký sinh trùng. Còn ở các nước phát triển, các nhân tố gây chết người thường liên quan đến hệ tuần hoàn máu do lối sống “hiện đại không được kiểm soát” dẫn đến bệnh hiểm nghèo như; mất khả năng miễn dịch, kháng thuốc hay ung thư. Ở cả hai nhóm nước này, mối đe dọa tới sức khỏe con người thường nhiều hơn trong cộng đồng dân cư nghèo khổ nhất, những người sinh sống ở nông thôn và nhất là phụ nữ và trẻ em. Những năm gần đây nhiều loại bệnh như HIV/AIDS ngày càng trở nên nguy hiểm, ngoài ra Tổ chức y tế thế giới (WHO) cảnh báo một số loại bệnh mới như cúm gia cầm chủng H5N1... cũng có nguy cơ đe dọa tính mạng của hàng chục triệu người nếu nó trở thành đại dịch.
An ninh môi trường là các mối đe dọa từ môi trường đối với con người được chia làm hai loại cơ bản: loại do con người tạo ra và loại do thiên nhiên tạo ra. Những mối đe dọa do con người tạo ra bao gồm: Ô nhiễm nguồn nước, đất đai, không khí; nạn chặt phá rừng... Mối đe dọa do thiên nhiên tạo ra bao gồm: bão, lũ lụt, hạn hán, động đất, sóng thần... Khoa học đã chứng minh rằng con người và thiên nhiên có mối quan hệ mật thiết, do đó hiện tượng biến đổi khí hậu khiến cho thiên nhiên trở nên ngày càng khắc nghiệt có một phần đáng kể bắt nguồn từ những hoạt động của con người. Sự nóng lên của trái đất là do lượng khí thải gây nên hiệu ứng nhà kính, hoặc lũ lụt và hạn hán bắt nguồn từ việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên rừng. Vấn đề an ninh môi trường nghiêm trọng tới mức UNDP đã dành toàn bộ Báo cáo phát triển con người năm 2007/2008 để bàn về chủ đề này. Báo cáo khẳng định rằng: có một điều tương đối rõ ràng là con người đang gặp phải ngày càng nhiều các trận bão lớn, lụt lội và hạn hán; chúng đang hủy hoại cơ hội của con người và làm gia tăng bất bình đẳng. Thế giới đang tiến sát tới thời điểm khó có thể tránh được thảm họa sinh thái.
An ninh cá nhân là khía cạnh quan trọng nhất của an ninh con người. Công dân của bất kỳ quốc gia nào, giàu hay nghèo, cuộc sống con người ngày càng bị đe dọa bởi nạn bạo lực khó lường trước với các hình thức rất dã man và phức tạp như: đe dọa từ nhà nước (tra tấn, lao động khổ sai); đe dọa từ các quốc gia khác (chiến tranh, xung đột vũ trang giữa các nhóm xuyên biên giới); đe dọa từ các nhóm người khác (căng thẳng và xung đột dân tộc, sắc tộc); đe dọa từ các cá nhân hoặc băng nhóm chống lại các cá nhân và băng nhóm khác (tội phạm, và tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, bạo lực đường phố); đe dọa trực tiếp đối với phụ nữ và trẻ em (bạo lực trong gia đình, buôn bán, lạm dụng trẻ em); đe dọa đối với bản thân (tự tử, nghiện hút). Trong mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau lại có các hình thức đe dọa tới an ninh cá nhân với tính đặc thù khác nhau.
An ninh cộng đồnglà sự an toàn cho con người ngay từ trong một nhóm người, một gia đình, một cộng đồng dân cư, một tổ chức hay một nhóm sắc tộc, tôn giáo... và rộng hơn là an ninh của mỗi người được bảo đảm khi người đó sống ở trong một quốc gia nhất định, bao gồm nhiều cộng đồng khác nhau hợp thành mà cộng đồng đó có khả năng tập hợp lực lượng để chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài. Nếu một nhóm hay một cộng đồng nào đó được an toàn, thì khả năng mỗi thành viên trong cộng đồng cũng được an toàn là rất cao.
An ninh chính trị là việc “xã hội tôn trọng các quyền cơ bản của con người”. Theo nghĩa rộng được Liên Hợp quốc xác định thì an ninh chính trị là quyền con người về chính trị. Theo đó, việc vi phạm nhân quyền là đe dọa tới an ninh chính trị của con người. Bảo đảm an ninh chính trị là làm sao để con người không phải chịu sự đàn áp, ngược đãi của các lực lượng thuộc quyền lực nhà nước, nhất là các cơ quan công quyền như: cảnh sát, quân đội và các lực lượng thực thi pháp luật khác...
Theo giới nghiên cứu, từ góc độ bảo đảm an ninh con người, trên phạm vi toàn cầu, người ta có thể chia thành hai loại: Một là, các mối đe dọa ở cấp độ quốc gia, tức là chúng thường chỉ có tác động trong phạm vi biên giới quốc gia; Hai là, các mối đe dọa toàn cầu, tức là chúng phổ biến và có tác động trên phạm vi rộng, xuyên quốc gia, ảnh hưởng tới nhiều cộng đồng khác nhau. Các mối đe dọa tới an ninh con người thuộc loại thứ nhất đã được đề cập nhiều trong các phân tích ở phía trên, còn các mối đe dọa thuộc loại thứ hai bao gồm:
(1) Sự gia tăng dân số không được kiểm soát: Mặc dù các quốc gia đã có nhiều chính sách hạn chế hoặc khuyến khích thích hợp để giảm gia tăng dân số, nhưng theo dự báo dân số toàn cầu vẫn sẽ đạt con số 9,7 tỷ người vào năm 2050 và 11 tỷ người vào cuối thế kỷ XXI. Tốc độ tăng dân số đã tạo áp lực rất lớn đối với việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên không có hoặc ít khả năng tái tạo như đất, nước, dầu mỏ, than đá...
(2) Áp lực về di dân: Một trong những hậu quả rõ rệt của việc gia tăng dân số và tình trạng đói nghèo ở các nước đang phát triển là làn sóng di cư quốc tế tăng mạnh trong những năm qua. Tổ chức Di trú quốc tế ước tính, năm 2005 trên toàn thế giới có khoảng 191 triệu người di cư so với 176 triệu người năm 2000, trong đó có từ 30 triệu đến 40 triệu người di cư bất hợp pháp. Phần lớn những người di cư đều từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển. Họ tạo nên áp lực lớn đối với xã hội các nước tiếp nhận, từ tạo việc làm, chăm sóc y tế, cung cấp chỗ ở cho đến bảo đảm an ninh cho họ. Bản thân những người nhập cư còn cạnh tranh với người bản địa về công việc, làm gia tăng mâu thuẫn giữa các cộng đồng dân cư ở nhiều nước phát triển. Những năm gần đây, nạn di dân còn đến từ các nước có chiến tranh ở Trung Đông, Bắc Phi sang châu Âu tạo nên cuộc khủng khoảng nghiêm trọng và hiện khó khăn vẫn chưa được hóa giải.
(3) Bất bình đẳng về cơ hội kinh tế: Thể hiện ở mức thu nhập bình quân đầu người giảm và sự bất bình đẳng ngày càng gia tăng. Khoảng cách giữa nhóm người giàu nhất và nghèo nhất tiếp tục doãng ra. Hiện vẫn còn tới 1,01 tỷ người có thu nhập dưới 1 USD/ngày(4). Có những nước ở châu Phi đang tụt hậu gần như khó có cơ hội đuổi kịp các nước phát triển hơn. Khiến cho toàn cầu hóa kinh tế không đồng nghĩa với việc tạo sự bình đẳng về cơ hội kinh tế cho mọi quốc gia, mọi cộng đồng. Vì thế, làn sóng chống toàn cầu hóa cũng nảy sinh.
(4) Nạn khủng bố quốc tế: Số liệu thống kê cho thấy từ năm 1975 đến 1992 bình quân có 500 vụ khủng bố quốc tế xảy ra mỗi năm. Từ đầu những năm 1990 trở lại đây số vụ khủng bố không giảm, quy mô khủng bố ngày càng lớn. Sau vụ 11-9 ở Mỹ, các vụ tấn công khủng bố ở Bali (Inđônêxia), ga tàu điện ngầm ở Lodon (Anh) hay trên tàu hỏa ở Madrid (Tây Ban Nha) và gần đây nhất là ở Pháp, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ, Ôxtrâylia... làm hàng trăm người thiệt mạng. Khủng bố không chỉ đe dọa tính mạng con người khắp nơi trên thế giới, mà còn gây thiệt hại nặng nề về tinh thần và vật chất.
(5) Phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD): sau Chiến tranh lạnh, các kho WMD của Mỹ và Nga đều giảm nhưng nguy cơ phổ biến lại tăng lên. Ấn Độ và Pakistan đã trở thành quốc gia hạt nhân từ năm 1998. Triều Triên cũng tham gia “câu lạc bộ” hạt nhân năm 2006. Việc phát hiện ra mạng lưới phổ biến công nghệ hạt nhân của A.Q Khan từ Pakistan cho thấy sự yếu kém trong việc phòng chống cho dù đã có các biện pháp nghiêm ngặt ở cấp độ quốc tế cũng như quốc gia. Vì WMD vẫn là vũ khí có sức hủy diệt lớn nhất nên một khi những kẻ khủng bố sở hữu WMD sẽ là thảm họa đối với thế giới. Gần đây tại Syria cũng đã xuất hiện khả năng bọn khủng bố IS cũng sử dụng vũ khí hóa học để tấn công dân thường(5).
(6) Xuống cấp về môi trường: Phần lớn các hình thức xuống cấp môi trường đều có tác động nghiêm trọng trong phạm vi quốc gia hoặc ở từng địa phương cụ thể. Tuy nhiên, hậu quả của chúng ngày càng lan rộng mang tính quốc tế cao, đe dọa đến nhiều quốc gia, thậm chí trên phạm vi toàn cầu. Các vụ cháy rừng ở Inđônêxia đã làm cho khói bụi lan sang Malaixia, Xinhgapo và một số nước khác; hoặc sự nóng lên của trái đất làm cho băng tan ở hai cực khiến nước đại dương dâng cao, uy hiếp trực tiếp các nước ven biển có nền đất thấp. Kinh tế phát triển “nóng” ở Trung Quốc cũng gây ô nhiễm nghiêm trọng cho các thành phố lớn của nước này. Xuống cấp môi trường đã trở thành mối đe dọa nguy hiểm vào bậc nhất đối với sự sinh tồn của con người.
(7) Sử dụng ma túy: Mặc dù các nỗ lực quốc tế phòng chống ma túy có mang lại một số kết quả nhất định, nhưng vẫn chưa có khả năng ngăn chặn triệt để nguy cơ này. Nạn ma túy hủy hoại tinh thần và sức khỏe của con người, xói mòn các nền tảng văn hóa, kinh tế, xã hội của các quốc gia. Những năm gần đây, các sản phẩm ma túy tổng hợp như thuốc lắc, ma túy đá, cỏ gây nghiện... phát triển mạnh ở châu Á càng làm cho nạn buôn ma túy thêm trầm trọng, mở rộng mối đe dọa đối với nhiều đối tượng mới, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên, kể cả học sinh và sinh viên.
_____________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 7.2017
(1) http://nghiencuuquocte.org: “An ninh con người”, cập nhật ngày 14.11.2014.
(2) http://www.tapchicongsan.org.vn: “An ninh con người và những mối đe dọa toàn cầu”, cập nhật ngày 15.5.2008.
(3) http://www.tapchicongsan.org.vn: “Nhìn lại kinh tế dưới thời Tổng thống Obama”, cập nhật ngày 25.11.2016.
(4) http://vnexpress.net: “Dân số thế giới sẽ đạt 11 tỷ vào cuối thế kỷ”, cập nhật ngày 13.8.2015.
(5) http://baodatviet.vn: “Tình hình Syria: Phiến quân dùng vũ khí hóa học, dân thường muốn rời Aleppo phải đút lót”, cập nhật ngày 30.10.2016.
Nguyễn Nhâm
Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn
Bài liên quan
- Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
- Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
-
2
Nâng cao chất lượng thực hành nghề nghiệp cho sinh viên ngành công tác xã hội tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
-
3
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
-
4
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
-
5
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
-
6
Truyền thông đại chúng trong kỷ nguyên số: động lực đổi mới mô hình phát triển xã hội Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứTư và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức diễn ra mạnh mẽ, việc xây dựng lực lượng sản xuất mới trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam. Trong đó, nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò then chốt, quyết định khả năng tiếp thu, ứng dụng và sáng tạo khoa học – công nghệ, thúc đẩy năng suất lao động, đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Bài viết tập trung làm rõ vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay - nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở nước ta.
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Trong suốt hơn hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, tên của Tổng thống Vladimir Putin đã trở thành biểu tượng gắn liền với tiến trình phát triển và chuyển mình của Liên bang Nga. Từ một quốc gia đối mặt với khủng hoảng kinh tế - chính trị nghiêm trọng sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin đã từng bước khôi phục ổn định, nâng cao vị thế quốc tế và củng cố bản sắc quốc gia. Dù vẫn còn không ít tranh cãi, không thể phủ nhận rằng Tổng thống Vladimir Putin đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nước Nga hiện đại như một nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn lao và lâu dài. Bài viết được thực hiện với mục đích phân tích các giai đoạn cầm quyền của ông, từ đó làm rõ những đóng góp, lựa chọn chiến lược và quyết sách của Ông đối với vận mệnh quốc gia. Qua đó, góp phần lý giải vì sao Tổng thống Vladimir Putin được xem là “người sẽ cứu nước Nga” trong thời kỳ chuyển giao và định hình bản sắc, quyền lực quốc gia hậu Xô Viết.
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Công cuộc tinh gọn bộ máy nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước hiện đại, hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả, phục vụ nhân dân. Trong tiến trình đó, công tác cán bộ đóng vai trò trung tâm, bởi cán bộ chính là người tổ chức và thực thi cải cách. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự tương xứng với yêu cầu đổi mới bộ máy nhà nước. Bài viết tiếp cận vấn đề từ nền tảng lý luận Mác, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng để phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn trong đổi mới công tác cán bộ, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống chính trị trong bối cảnh mới.
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh chuyển đổi số y tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn quốc, một số bệnh viện tuyến trung ương đã bước đầu ứng dụng truyền thông số hiệu quả trong tư vấn tâm lý – xã hội, kết nối cộng đồng và vận động nguồn lực, tuy nhiên, phần lớn bệnh viện tuyến tỉnh, huyện chưa có điều kiện triển khai đầy đủ. Bài viết đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tích hợp truyền thông số vào hoạt động công tác xã hội (CTXH) tại bệnh viện, góp phần định hướng phát triển CTXH bệnh viện theo hướng chuyên nghiệp, công bằng và thích ứng với bối cảnh số hóa y tế đến năm 2030.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Theo thống kê trong giai đoạn từ 2013 – 2023 cho thấy độ tuổi kết hôn trung bình của người dân đang có xu hướng tăng(1). Vì vậy, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi này tại Việt Nam. Bài nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi trong độ tuổi kết hôn của người dân Việt Nam, đồng thời phân tích rõ ảnh hưởng của những nhân tố như trình độ học vấn, nền tảng gia đình, địa lý, chi phí sinh hoạt, thu nhập, nghề nghiệp và truyền thông tới việc trì hoãn kết hôn, thông qua dữ liệu từ cuộc khảo sát gồm 736 người trong độ tuổi từ 18 – 35, trải rộng khắp các vùng miền của Việt Nam. Qua đó, nhóm tác giả nêu lên một số đánh giá về tác động của hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ tới sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sau cùng, nhóm tác giả đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề trì hoãn kết hôn của người trẻ Việt Nam hiện nay.
Bình luận