Bảo vệ nền tảng lý luận của Đảng qua việc nghiên cứu tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”
Dẫn luận
Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng biên soạn. Sau khi phát hành, cuốn sách đã được các đọc giả, các nhà khoa học đánh giá rất cao, đặc biệt đối với những người nghiên bảo vệ nền tảng lý luận của Đảng. Cuốn sách tập hợp 29 bài viết. Nội dung cơ bản của cuốn sách đề cập đến những vấn đề chiến lược có tính chất lâu dài về con đường mà dân tộc Việt Nam phải đi và phải đến.
Để làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của cuốn sách này, đối với việc bảo vệ nền tảng lý luận của Đảng cần làm rõ “bốn” câu hỏi lớn mà Tổng Bí thư đặt ra: “Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?”(1), đây là những câu hỏi không chỉ đặt ra đối với các học giả, các nhà nghiên cứu lý luận mà còn đặt ra cho toàn thể dân tộc Việt Nam suy nghĩ về con đường của chính mình.
Chủ nghĩa xã hội là gì?
Để trả lời cho câu hỏi này, trên nền tảng lý luận của Chủ Nghĩa Mác Lênin cho rằng tiến trình phát triển của xã hội loài người lần lượt trải qua các hình thái kinh tế – xã hội từ thấp đến cao “là một quá trình lịch sử – tự nhiên”(2), nghĩa là việc thay thế từ hình thái kinh tế xã hội này bằng hình thái kinh tế – xã hội khác là một tất yếu của lịch sử, diễn ra theo quy luật khách quan. Sự phát triển đó, suy đến cùng là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mỗi khi lực lượng sản xuất phát triển mang tính vạch thời đại thì tất yếu dẫn đến mâu thuẫn giai cấp, từ mâu thuẫn gia cấp tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội.
Khi cuộc cách mạng xã hội nổ ra giai cấp cách mạng tất yếu giành thắng lợi, lật đổ giai cấp cũ, xóa bỏ nhà nước và những tàn tích lạc hậu của giai cấp cũ, xây dựng một xã hội mới tiến bộ hơn. Do vậy, khi lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội phát triển tiên tiến hơn lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản thì muốn hay không muốn tất yếu chủ nghĩa tư bản vẫn bị phá vỡ và bị thay thế bởi chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển là một tất yếu của xã hội loài người. Mác và Ăngghen đã chỉ ra: chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Sau khi lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền nhà nước và từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. “Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện – kinh tế, đạo đức, tinh thần – còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”(3). Cái xã hội “thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa” là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, giai đoạn này là sự đan xen giữa cái cũ và cái mới, cái mới đang manh nha hình thành và từng bước khẳng định vị thế của mình, cái cũ vẫn còn tồn tại nhưng đang bị xóa bỏ từng phần.
Giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội không thể không thừa nhận nhiều loại hình kinh tế đan xen lẫn nhau hay nói cách khác, là phải thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Ở giai đoạn này, mặc dù giai cấp vô sản đã giành được chính quyền nhà nước nhưng vẫn phải thừa nhận sự tồn tại những tàn tích của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, cùng với nó là những vấn đề liên quan đến tư tưởng, đạo đức, tinh thần, thậm chí một số vấn đề liên quan đến hệ thống pháp luật. Bởi vì, còn tồn tại phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì còn tồn tại một số cơ chế để điều chỉnh nó. Nghĩa là, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội về mặt kinh tế cần phải kế thừa cách thức quản lý, thành tựu khoa học mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra; về mặt tư tưởng kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là: giải phóng con người, tạo mọi điều kiện để con người phát triển toàn diện. Có lực lượng sản xuất phát triển cao, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất từng bước được xác lập, tổ chức quản lý hiệu quả, năng suất lao động cao, phân phối theo lao động. Chế độ dân chủ tiến bộ, Nhà nước dân chủ mang bản chất giai cấp công nhân với sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động. Xã hội công bằng, bảo đảm bình đẳng giữa các dân tộc.
Trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đưa ra quan điểm chủ nghĩa xã hội là “một xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội, hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó, cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội”(4). Nghĩa là một xã hội mới hướng tới những giá trị về hạnh phúc, đạo đức, quyền con người được tôn trọng, con người có điều kiện phát triển toàn diện về cả vật chất lẫn tinh thần, “Thay cho xã hội tư sản cũ với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(5).
Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, Tổng Bí thư cũng nhìn thấy tính đối lập lợi ích giữa xã hội chủ nghĩa và xã hội cạnh tranh, giữa các cá nhân và phe nhóm trong nội tại của chủ nghĩa tư bản đã và đang tạo ra sự nguy hiểm cho xã hội loài người, các phe nhóm này vì lợi ích đã tạo ra chiến tranh ở nhiều khu vực trên thế giới, cụ thể, như: xung đột Nga – Ukraina, khu vực Trung Đông và một số khu vực khác có nguy cơ đưa loài người đến vực thẳm của chiến tranh thế giới thứ ba, nếu không giải quyết triệt để vấn đề này thì nhân loại nguy cơ sẽ bị diệt vong. Quan điểm của Tổng Bí thư đã mở ra một bức tranh chân thực cho các nhà lý luận có một cái nhìn khách quan về chủ nghĩa xã hội; đồng thời, cũng thấy được những nguy hiểm mà Việt Nam và thế giới đang phải đối mặt.
Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa?
Thực tế cho thấy, chỉ có con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mới có thể đưa Việt Nam từ một dân tộc nửa thuộc địa trở thành dân tộc làm chủ chính mình, đưa một nước nghèo nàn, lạc hậu trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng nhất, nhân văn nhất, vì “mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích trong mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân, lấy hạnh phúc của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.
Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”(6).
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang thực hiện hội nhập sâu rộng quốc tế, cùng với đó là xây dựng “nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, giàu bản sắc của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hoá nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao”(7).
Từ các phương diện trên, Tổng Bí thư khái quát: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”(8). Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn, đó là tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; tình trạng hối lộ, tham nhũng có nguy cơ trở thành quốc nạn.
Do vậy, Tổng Bí thư cùng với Đảng, Nhà nước và Nhân dân buộc phải châm ngọn lửa “đốt lò” trừng trị những thành phần tha hóa về đạo đức, từng bước loại ra khỏi hệ thống chính trị với mục đích cao cả là làm trong sạch Đảng và Nhà nước, lấy lại niềm tin của Nhân dân, đưa đất nước trở nên hùng mạnh, làm cho Nhân dân có cuộc sống phồn vinh, ấm no, tự do, hạnh phúc, việc làm tốt đẹp này đã được sự ủng hộ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Tuy nhiên, không thể tránh khỏi sự chống phá của các thế lực thù địch đang tìm cách xuyên tạc về cuộc chiến chống tham nhũng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
Câu hỏi này đã được nhiều văn kiện của Đảng đề cập tới ở mỗi thời điểm lịch sử cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, căn cứ vào thực tiễn, Tổng Bí thư chỉ ra cách thức đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động. Bời vì, chủ nghĩa Mác – Lênin là chủ nghĩa có “Tính khoa học và cách mạng triệt để, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện”(9). Thực tiễn đã chứng minh quá trình vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào cách mạng Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi to lớn, trước tiên phải kể đến chúng ta quét sạch quân xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, sau hòa bình lập lại chúng ta tiến hành đổi mới đất nước.
Cách thức để Việt Nam tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, Tổng Bí thư đưa ra phương pháp là cần thực hiện “một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường; vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối”(10). Chỉ có cách này mới có thể đưa Việt Nam xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tổng Bí thư giải thích thêm: “Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)”(11). Thời kỳ quá độ là thời kỳ đan xen giữa phương thức sản xuất mới và phương thức sản xuất cũ, trong thời kỳ này tất yếu phải thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong lĩnh vực đối ngoại, Tổng Bí thư xác định phương pháp đưa Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội thì cần phải thực hiện chiến lược ngoại giao theo kiểu “cây tre”. Cái gốc của cây tre thể hiện sự bền vững, phong phú về văn hóa, thống nhất về bản sắc được trồng trên nền tảng của chủ nghĩa yêu nước, lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm chất dung dưỡng; thân của cây tre là biểu hiện sức mạnh của dân tộc, bền, chắc, dẻo dai với quân đội chính quy, hiện đại, sẵn sàng đập tan mọi sự chống phá của các thế lực thù địch; ngọn của cây tre thể hiện sự mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt trong cách ứng xử các vấn đề quốc tế; sự thẳng thắn của cây tre là thể hiện tư tưởng nhân văn của con người Việt Nam luôn là quốc gia thực hiện, bảo vệ “chân lý và chính nghĩa” trong việc giải quyết các xung đột khu vực và trên thế giới; cây tre là tượng trưng cho mỗi con người Việt Nam không ngừng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, “linh khí của vũ trụ” để làm cho cây tre mãi mãi được bền vững.
Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?
Trước hết, Tổng Bí thư đánh giá những kết quả của những thành tựu đạt được trong thực tiễn đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(12). Đây cũng là sự nỗ lực cố gắng của toàn thể dân tộc..
Theo Tổng Bí thư, ý nghĩa của công cuộc đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu lớn “không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế”(13). Tuy nhiên, vấn đề đặt ra cũng không ít khó khăn, như: tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang là vấn đề nhức nhối hiện nay; tình trạng tham nhũng mặc dù đã hạn chế nhưng vẫn còn diễn biến phức tạp, khó lường; các thế lực thù địch lưu vong ở nước ngoài đang tìm cách phá hoại chúng ta ở nhiều lĩnh vực, bộ phận phản cách mạng ở trong nước đang tìm cách xuyên tạc các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gây bất ổn về an ninh, chính trị ở một số khu vực, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội không ngừng chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chủ nghĩa tư bản có nguy cơ hình thành “đế quốc kiểu mới”, kích động bộ phận “dân tộc chủ nghĩa” đã và đang gây ra những xung đột ở nhiều khu vực trên thế giới, vấn đề quốc phòng – an ninh trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt khu vực Đông Nam Á và khu vực Biển Đông có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ xung đột.
Để giải quyết vấn đề này, Tổng Bí thư đưa ra quan điểm là: cần phải “nâng cao công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”(14).
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng chính là tạo ra sức mạnh chiến đấu của Đảng để Đảng có đủ sức mạnh chống được cả giặc nội xâm lẫn giặc ngoại xâm, củng cố niềm tin đối với Nhân dân; đoàn kết chính là xây dựng Đảng thành một khối thống nhất, kể cả ý chí và hành động, đủ khả năng “kháng sinh” chống lại tất cả các thế lực thù địch.
Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là việc làm bền bỉ, lâu dài, không phải là vấn đề một sớm, một chiều, cũng không phải là việc làm của riêng ai mà nó đòi hỏi sự đoàn kết, trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị. Để làm tốt vấn đề này, chúng ta cần phải kiên trì, kiên định và có sự đồng thuận của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mới đến ngày toàn thắng.
Kết luận
Bốn câu hỏi lớn mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặt ra cũng là nội dung xuyên suốt có tính logic chặt chẽ, từ cách đặt vấn đề đến cách giải quyết vấn đề, trở thành một chỉnh thể thống nhất về cả lý luận lẫn thực tiễn. Quan điểm của Tổng Bí thư chính là hội tụ những giá trị văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp biện chứng với lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quan điểm này như một chiến lược định hướng cho cách mạng Việt Nam và cũng là khát vọng của toàn thể Nhân dân Việt Nam nhằm biến “giấc mơ của dân tộc Việt Nam” trong tương lai thành hiện thực./.
________________________________________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, 4, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14. Nguyễn Phú Trọng. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, 2022, tr.17, 28, 28, 92, 22, 37, 25, 26, 34, 30, 47 – 48.
2. Mác và Ăngghen. Toàn tập. Tập 32. H. NXB. Chính trị quốc gia, 1993, tr.21.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập. Tập 19. H. NXB. Chính trị quốc gia, 1995, tr.33.
5. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập. Tập 4. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, 1995, tr.628.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Quản lý Nhà nước điện tử ngày 2/2/2024
Bài liên quan
- Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
- Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
- Nhận diện và xử lý những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong sách tôn giáo
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Xây dựng phẩm chất nghề nghiệp người làm báo theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà báo vĩ đại, tấm gương sáng ngời để chúng ta thường xuyên học tập và noi theo. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ truyền thông, báo mạng điện tử ngày càng phát triển mạnh mẽ, báo chí truyền thống đứng trước cơ hội và thách lớn. Báo chí nước ta là vũ khí tư tưởng quan trọng của Đảng và Nhà nước, diễn đàn của nhân dân, góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bài viết sau đây trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng phẩm chất nghề nghiệp người làm báo trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, đồng thời hưởng ứng cuộc vận động “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh”, góp phần xây dựng nền báo chí Việt Nam chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại theo chủ trương của Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận và báo chí của Đảng, đáp ứng yêu cầu cấp bách và có ý nghĩa cơ bản, lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do các yếu tố chủ quan và khách quan mang lại. Lan toả các giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiếp tục đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vấn đề của hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay là làm sao thu hút được sự quan tâm của đại bộ phận nhân dân, để nhân dân tin tưởng và làm theo Đảng thông qua những nội dung gần gũi, sinh động, hấp dẫn và hiện đại. Hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt truyền thông xã hội và hiện tượng truyền thông hoá.
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả là một biến thể nguy hại của chủ nghĩa cá nhân, trái ngược với những yêu cầu về phẩm chất đích thực và đạo đức cách mạng. Vì vậy, ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả là loại bỏ những thói hư tật xấu đang ngấm ngầm làm tha hóa cán bộ, đảng viên. Chống uy tín giả cũng là chống chủ nghĩa cá nhân, củng cố uy tín đích thực của người cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả nảy sinh, xâm nhập, lây lan trong đời sống chính trị, xã hội do nhiều nguyên nhân, trong đó, yếu tố chủ quan của tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên là nguyên nhân trực tiếp, phổ biến.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Một trong những nguy cơ ngấm ngầm tạo ra sự ghen ghét, đố kỵ, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, làm suy yếu tổ chức, suy yếu tập thể là uy tín giả. Nghiêm trọng hơn, nó còn thúc đẩy sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân rất nguy hại. Suy rộng ra, uy tín giả hủy hoại nghiêm trọng thanh danh của Đảng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta nếu không được nhận diện, đấu tranh, ngăn chặn.
Bình luận