Cổ xúy “chọn bên”: Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị nhằm chống phá đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Đằng sau âm mưu cổ xúy “chọn bên”
Lâu nay, chính sách đối ngoại của Việt Nam là một trong những mục tiêu tấn công của các thế lực thù địch, phản động. Ngoài việc bóp méo, xuyên tạc, làm sai lệch bản chất các vấn đề, các sự kiện, xuyên tạc chính sách đối ngoại của Việt Nam, họ còn cổ xúy cho cái gọi là “chọn bên”, rằng Việt Nam cần dựa vào nước này để chống nước khác. Gần đây, trước những biến động lớn của đời sống quốc tế liên quan đến cạnh tranh giữa các cường quốc, nhất là cuộc xung đột tại U-crai-na, các phần tử phản động lại rộ lên các chiêu bài cũ, liên tục rêu rao “giảng dạy” cho Việt Nam về chính sách ngoại giao với các nước, đặc biệt là mối quan hệ với các nước lớn, cho rằng đây là cơ hội lịch sử nghìn năm có một để “Việt Nam vươn ra khỏi vòng kim cô”, rằng đây là lúc “thoát Trung, bài Nga”, sớm “đưa Việt Nam hội nhập vào thế giới tự do, văn minh và tiến bộ của phương Tây, đúng với vị trí mà thế giới mong đợi(?!)”. Thậm chí, trên các trang facebook của họ còn xuất hiện cái gọi là “thoát Trung luận” với những luận điểm cổ xúy cho việc chọn bên. Họ cho rằng Việt Nam cần dựa vào Mỹ và các nước phương Tây để vừa phát triển kinh tế, vừa “ngăn chặn hiểm họa từ nước khác”.
Một số quan điểm cho rằng, Mỹ đang muốn lôi kéo Việt Nam vào liên minh chống Trung Quốc do Mỹ đứng đầu, muốn Việt Nam gia nhập “Bộ tứ kim cương mở rộng” nhằm tăng cường sức ép đối với Trung Quốc. Không chỉ đưa ra những luận điểm “bài”, “thoát”, mà họ còn cho rằng cần thiết lập “đồng minh” với các nước lớn, quốc tế hóa những vấn đề nội bộ của Việt Nam, nhằm hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đối với công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, họ hô hào rằng, chỉ có liên minh quân sự với một cường quốc thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền, bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc; không liên minh quân sự thì mất lãnh thổ, chủ quyền ở Biển Đông; Việt Nam nên liên minh quân sự với các nước lớn có thực lực quân sự, quốc phòng mạnh để được hỗ trợ tối đa về mặt quân sự, kể cả đưa vũ khí trang bị, lực lượng quân đội đến trợ giúp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo quốc gia.
Thậm chí, có ý kiến còn cổ xúy cho quan điểm không liên minh quân sự là đúng trong trường hợp nhằm chống nước khác, nhưng sẽ không đúng đối với trường hợp để bảo vệ Tổ quốc; rằng cần có cách tiếp cận mới và sớm điều chỉnh quan điểm chỉ đạo này. Họ cho rằng, vì mục đích bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thì chẳng những cần thiết mà thậm chí nên chủ động liên minh trước với các nước thật sự tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam. Thông qua thủ đoạn thâm độc này, họ tìm cách tác động đến dư luận, để qua đó hướng lái chính sách đối ngoại, hòng đưa Việt Nam đi vào quỹ đạo lệ thuộc, từ đó làm chệch hướng sự nghiệp cách mạng mà Việt Nam đang thực hiện.
Thực tế, chiêu trò xuyên tạc chính sách đối ngoại, cho rằng Việt Nam không “dứt khoát” trong quan hệ quốc tế, kích động Việt Nam phải thể hiện lập trường, phải chọn bên, là một thủ đoạn thường xuyên được các thế lực thù địch, phản động tìm cách phát tán, cho thấy một sự nhận thức lệch lạc, thiếu hiểu biết, thiếu khách quan, suy diễn một chiều, mơ hồ về chính trị, xuyên tạc vô căn cứ đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Thực chất của những hoạt động trên cũng chỉ nhằm thông qua sự can thiệp từ bên ngoài hòng lật đổ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa của nước ta.
Chọn bên hay chọn lợi ích quốc gia - dân tộc?
Thực tiễn lịch sử quan hệ quốc tế cho thấy, giữa các nước lớn, nhất là giữa các cặp quan hệ, luôn tồn tại mâu thuẫn và khác biệt sâu sắc về lợi ích. Khi giữa các cường quốc có sự đối địch, chia phe, cạnh tranh ảnh hưởng sẽ kéo theo nhiều hệ lụy khó xử đối với các nước vừa và nhỏ trong việc phải “chọn bên”. Bởi lẽ, không phải cứ chọn bên là có thể bảo vệ được chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc, khi mà tham vọng lợi ích của các cường quốc thường vượt quá giới hạn luật pháp quốc tế và đi ngược lại lợi ích chung của nhân loại, đề cao lợi ích của mình để xử lý quan hệ với các đồng minh theo tiêu chí và giá trị lợi ích của họ. Thậm chí, kể cả khi lợi ích của họ có sự hội tụ nhất định ở một vài điểm, khía cạnh nào đó, họ cũng sẵn sàng mặc cả trên lưng các nước khác.
Việc chọn bên mà không tính và không lường hết được những toan tính chiến lược đó sẽ chỉ tạo ra sự phân cực, chia rẽ mới, gây thảm họa cho chính quốc gia đó. Và khi chọn bên, tham gia liên minh thì cái giá phải trả là gì? An ninh chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc phải chăng sẽ được bảo đảm bằng những lời hứa, cam kết? Điều chắc chắn, đó là phải chấp nhận nhượng bộ ít nhiều về chủ quyền hoặc lợi ích quốc gia - dân tộc của mình với cường quốc khi tham gia liên minh. Đó là điều không thể khác trong quan hệ quốc tế. Do vậy, dựa vào một quốc gia nào đó cho dù là “nước phát triển”, hay “cường quốc” thì chẳng những không giải quyết được vấn đề, mà còn khiến tình hình thêm căng thẳng và phức tạp.
Thế nhưng, không ít người ngộ nhận rằng, lựa chọn đứng về “bên” nào sẽ quyết định tương lai, số phận của quốc gia đó. Bài học lịch sử cho thấy, một số nước do không giữ được độc lập, tự chủ, nên phải tìm chỗ dựa hoặc cầu viện vào thế lực bên ngoài, bị cuốn vào guồng quay của những toan tính nước lớn mà không dễ gì thoát khỏi, để đất nước rơi vào thảm cảnh loạn ly bởi các cuộc chiến tranh ủy nhiệm. Các cuộc “cách mạng màu”, hay còn gọi là “cách mạng dân chủ” trên thế giới trong những năm qua là hệ quả của việc quốc gia, khu vực không bảo đảm độc lập, tự chủ, để các lực lượng bên ngoài thao túng, can thiệp khi xảy ra khủng hoảng, khiến nút thắt của những xung đột, mâu thuẫn, đối kháng nội bộ càng thêm rối ren.
Lựa chọn chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trước hết là quyền của mỗi quốc gia. Không một ai, với tư cách, danh nghĩa gì được phép tước bỏ, xâm phạm quyền đó, hoặc lợi dụng để ép buộc quốc gia khác phải đi theo mô hình, giá trị của họ. Việc chọn bên hay không chọn bên, đều phải xuất phát từ điều kiện thực tiễn phát triển của đất nước, phải bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; dựa vào sức mình là chính, luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ; không thể ảo tưởng, trông chờ, phó thác hoàn toàn vào bất cứ “bên”, “liên minh” nào, nhất là ngày nay, xu hướng đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc trên thế giới ngày càng chiếm vai trò chủ đạo.
Bước vào thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, nhất là trong thời điểm biến động sâu sắc về địa - chính trị hiện nay, sự cạnh tranh cũng như điều chỉnh chính sách của các nước lớn khác trước rất nhiều so với giai đoạn trước, chứa đựng nhiều nhân tố khó dự báo. Việc các nước lớn đều theo đuổi các tầm nhìn khác nhau về cấu trúc khu vực, xúc tiến mở rộng tập hợp lực lượng, gia tăng ảnh hưởng thông qua các sáng kiến khu vực, hình thành các liên minh tay ba, tay tư, sử dụng “quyền lực mềm” nhằm lôi kéo sự ủng hộ của các nước thông qua các quan hệ kinh tế, đầu tư, thương mại, chuyển giao công nghệ, viện trợ,... đặt các nước vừa và nhỏ trước ranh giới của sự “chọn bên”. Duy trì chính sách độc lập, tự chủ, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trở thành một bài toán nan giải đối với các nước.
Một thực tế khác cũng cần nói đến là, trong quan hệ quốc tế đương đại, các nước vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau, vừa là đối thủ, vừa là đối tác của nhau. Quan hệ tương tác, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước tạo nên một mạng lưới đan xen phức tạp, chồng chéo, khiến việc giữ độc lập, tự chủ, tránh chọn bên của các nước ngày càng trở thành một thách thức.
Thực tế này đòi hỏi các nước nhỏ càng phải phát huy cao nhất tinh thần độc lập, tự chủ; vừa kiên định trong lập trường, vừa hết sức khôn khéo, mềm dẻo trong đấu tranh vì lợi ích quốc gia - dân tộc của mình, tránh xung đột, đối đầu; đồng thời, phải tính đến không gian phát triển, không tự bó buộc mình vào vị trí bất lợi cho đất nước trong bối cảnh cục diện quan hệ quốc tế còn nhiều bất định; sự vận động của cấu trúc quyền lực thế giới mới đang có nhiều đảo chiều, biến đổi.
Trong bối cảnh đó, cân bằng quan hệ để tránh tối đa những mâu thuẫn, bất lợi, rủi ro, leo thang thành cuộc đối đầu, xung đột toàn diện; tối đa hóa không gian hợp tác, tối ưu hóa lợi ích an ninh, phát triển là sự lựa chọn của hầu hết các nước trong khu vực hiện nay. Đối với các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), lập trường của hầu hết các nước là không “chọn bên” trong bối cảnh cạnh tranh nước lớn. Đây là vấn đề cốt lõi, sinh tử của các nước, bởi sự “chọn bên” có thể dẫn đến sự phân hóa, chia rẽ mới trong khu vực, biến khu vực thành “sân khấu tranh chấp địa - chính trị”. Thực tế đó đòi hỏi các nước triển khai chính sách linh hoạt, tránh xung đột, đối đầu. Đây được cho là sự lựa chọn tối ưu nhằm tối ưu hóa lợi ích quốc gia, bảo vệ chủ quyền đất nước, duy trì thế tự chủ chiến lược, thể hiện khát vọng một ASEAN tự cường, trung lập, hòa bình, ổn định, củng cố “vai trò trung tâm” trong bối cảnh tác động chiến lược ngày càng gia tăng giữa các nước lớn.
Việc một số quốc gia xích lại gần bên nọ, bên kia là điều tự nhiên; liên minh để bảo đảm an ninh, phát triển là điều dễ hiểu, song hầu hết các nước không muốn bị ép buộc phải chọn bên. Hơn lúc nào hết, việc chọn bên trong thời điểm cao trào xung đột nước lớn, giống như việc “đổ thêm dầu vào lửa”, tạo thế đối trọng giữa các bên, mâu thuẫn giữa các trục liên minh cũng vì thế gia tăng, làm tổn hại đến chính lợi ích của các nước.
Do vậy, quan điểm cổ xúy “chọn bên” chỉ là ảo tưởng, phi thực tế, phi căn cứ. Lợi ích quốc gia - dân tộc mới chính là sự lựa chọn phù hợp, bất biến, bền vững. Việt Nam cũng như nhiều nước trong khu vực, luôn thấu hiểu rõ điều này. Uy-li-am Chong, nghiên cứu viên cao cấp của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (SAS - Yusof Ishak) có trụ sở tại Xin-ga-po, khi nói về chính sách đối ngoại của Việt Nam trong bài viết “Mạnh mẽ và tinh tế: Cách tiếp cận của Việt Nam để đối phó với sự cạnh tranh của các cường quốc”, trên trang mạng Thinkchina ngày 10/5/2021 đã cho rằng: “Nếu quyền tự quyết trong bối cảnh cạnh tranh nước lớn là khả năng tối đa hóa lợi ích từ cả hai cường quốc trong khi áp dụng các chính sách phòng ngừa rủi ro để duy trì quan hệ, thì Việt Nam là một điển hình kinh điển của nghệ thuật đó, có thể giúp các quốc gia Đông Nam Á khác nhân rộng chính sách này một cách hữu hiệu”.
Thứ nhất, trong lịch sử cách mạng và trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Việt Nam nhất quán không “chọn bên”.
Có thể khẳng định, đường lối đối ngoại xuyên suốt, nhất quán của Đảng ta là độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và rộng mở đó luôn kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, “dĩ bất biến ứng vạn biến”, không phụ thuộc vào bất cứ quốc gia nào khác.
Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ được kết tinh từ trong lịch sử, thể hiện ý chí tự cường của một dân tộc nhỏ trước các thế lực ngoại xâm hùng mạnh. Tinh thần độc lập, tự chủ thể hiện trong những văn kiện đầu tiên của Đảng giai đoạn tổng khởi nghĩa giành chính quyền với tinh thần “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp từ ngoài vào”(1).
Tư tưởng độc lập, tự chủ đã trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt và định hình các hoạt động đối ngoại của Việt Nam, được phát huy cao độ trong quá trình đấu tranh cách mạng, góp phần đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta đi đến thắng lợi cuối cùng. Với đại thắng mùa Xuân năm 1975, đường lối ngoại giao độc lập, tự chủ của Việt Nam đã đạt tới đỉnh cao, mở ra một thời kỳ mới trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong suốt chiều dài lịch sử, trước những biến đổi của thời đại, sự chênh lệch tương quan lực lượng giữa Việt Nam và các nước khác, nhưng Việt Nam đã bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc của mình chính là nhờ kiên trì theo đuổi mục tiêu và nguyên tắc độc lập, tự chủ. Những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều biến động, chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Trước các biến cố chao đảo của thời cuộc, giữa những dao động, ngả nghiêng của lòng người, của niềm tin về tương lai của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, Việt Nam vẫn vững vàng, kiên tâm trên con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn; trên cơ sở đánh giá lại cục diện thế giới để xác định đường lối, chính sách đối ngoại trong tình hình mới, giữ vững độc lập, tự chủ, đưa đất nước đi lên.
Trong thời kỳ Đổi mới, vận dụng sáng tạo quan điểm độc lập, tự chủ, Việt Nam đã thực hiện chính sách đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, tránh phụ thuộc vào bất cứ nước lớn hay nhóm nước nào. Qua các kỳ Đại hội, đường lối đối ngoại đã được bổ sung và hoàn chỉnh. Từ chỗ “Việt Nam muốn là bạn”, đến “Việt Nam sẵn sàng làm bạn”, và hiện nay “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, nhất quán, có tầm quan trọng xuyên suốt, mang ý nghĩa sống của Việt Nam trên con đường đổi mới.
Xuyên suốt lịch sử cách mạng đấu tranh cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Việt Nam luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, không tham gia liên minh quân sự với cường quốc, không đứng về bên nọ để chống bên kia. Quan điểm xuyên suốt của Việt Nam là độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính, phát huy nội lực, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế, thực hiện chính sách đối ngoại vì hòa bình, tự vệ, chính nghĩa, nhân văn, nhân đạo, để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
Những gì thuộc về chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc là thiêng liêng và tối cao, bất khả xâm phạm. Đây là vấn đề bất biến, cốt lõi, chính yếu, thường trực, không thể đánh đổi hay nhân nhượng, không thể để nước ngoài thao túng, quyết định vận mệnh của đất nước. Điều này được Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện nhất quán từ trước đến nay theo nguyên tắc “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.
Trong những thời kỳ lịch sử cách mạng, Việt Nam có lúc bị kẹt giữa những toan tính của các nước lớn, song chúng ta vẫn vượt qua được những thách thức hiểm nghèo, bảo toàn được thành quả cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, khi cạnh tranh giữa các nước lớn có nguy cơ chia rẽ thế giới theo những lằn ranh mới, quyết liệt và sâu sắc hơn, tác động trực tiếp và nhiều chiều đến quan hệ quốc tế, Việt Nam vẫn kiên vững chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, không ngả theo bên nọ để chống bên kia. Hiếm có quốc gia nào có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với nhiều nước lớn như Việt Nam(2); và có quan hệ ngoại giao với 192 trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng.
Việt Nam đã gắn kết và đan xen lợi ích với nhiều quốc gia trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng và an ninh. Quan hệ của Việt Nam với các nước, nhất là các nước lớn, ngày càng đi vào chiều sâu, ổn định. Việt Nam chủ động thúc đẩy và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác; tích cực hội nhập quốc tế ngày một toàn diện, sâu rộng Trong bối cảnh thế giới và khu vực đan xen nhiều thách thức khó lường, Việt Nam phát huy vai trò là một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng góp phần vào duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới. Có được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong gần 40 năm đổi mới là minh chứng cho đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, tự cường, hòa bình, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Việt Nam.
Như vậy, quan điểm cho rằng Việt Nam cần dựa vào nước ngoài để gia tăng sức mạnh bảo vệ, phát triển đất nước là không có cơ sở, ảo tưởng, phi thực tế.
Thứ hai, Việt Nam chọn chính nghĩa, lẽ phải, hòa bình và phát triển
Bối cảnh quốc tế hiện nay có nhiều biến động phức tạp, bất lường. Cuộc cạnh tranh giữa các nước lớn trong khu vực và trên thế giới ngày càng quyết liệt trên nhiều lĩnh vực, diễn ra dưới nhiều hình thức, với quy mô, phạm vi ngày càng mở rộng, tính đối kháng ngày càng gay gắt, nội dung ngày càng phức tạp, do đó tính khốc liệt cũng ngày một gia tăng, không gian và thời gian là vô cùng, không có giới hạn, đôi khi mang dáng dấp một cuộc chiến tranh lạnh. Các nước lớn vừa đấu tranh, vừa thỏa hiệp, kéo theo đó là những tập hợp lực lượng mới manh nha, những “sáng kiến” chiến lược được hình thành, những điều ước mà đằng sau đó là những liên minh, liên kết... ra đời, nhiều khi đặt các nước phải thể hiện rõ lập trường, tham gia hay không tham gia, tham gia như thế nào để đạt được lợi ích tối ưu cho đất nước.
Thế giới dường như ngày càng có xu hướng phân tuyến rõ ràng. Việt Nam - một quốc gia thành viên ASEAN có vị trí địa - chính trị, địa - kinh tế quan trọng trong khu vực, là đối tượng quan tâm của các nước lớn. Do vậy, trong quan hệ hợp tác với Việt Nam, các nước đều hàm ý muốn lôi kéo Việt Nam tham gia những sáng kiến, tập hợp lực lượng mà họ “dàn xếp”, thông qua “sức mạnh mềm” viện trợ, đầu tư, phát triển... Bối cảnh đó đòi hỏi Việt Nam xác định nguyên tắc, lợi ích và cách ứng xử với các nước trên cơ sở lợi ích chung; lựa chọn đối sách có lợi cho đất nước, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Cần thấy rõ rằng, trong quan hệ quốc tế, hợp tác và đấu tranh là hai mặt song hành; trong quan hệ đối tác - đối tượng có sự đan xen, chuyển hóa. Phương châm này giúp chúng ta tận dụng cơ hội hợp tác; đồng thời, thấy rõ hơn sự khác biệt về lợi ích để tìm các giải pháp đưa quan hệ phát triển, không bỏ lỡ cơ hội hợp tác, nhưng cũng không lơ là, mất cảnh giác. Mục tiêu cơ bản, lâu dài trong nhận thức và vận dụng quan điểm về đối tác, đối tượng của Đảng ta là nhằm tăng cường đoàn kết, mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị với bè bạn quốc tế, khai thác mặt đối tác, ngăn ngừa, hạn chế, thu hẹp mặt đối tượng. Do vậy, không thể cho rằng, đối tác chỉ là để hợp tác và đối tượng chỉ là để đấu tranh.
Với nhận thức mới như vậy, trong môi trường quốc tế ngày càng “phẳng”, sự tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng sâu sắc, đa chiều..., Việt Nam đẩy mạnh quan hệ đối ngoại, cả song phương và đa phương, với cả những nước có yếu tố đối tượng của chúng ta. Đối với các vấn đề bất đồng, nhất là trong quan hệ với các nước lớn, nước láng giềng, Việt Nam tìm cách xử lý khôn khéo, tránh đối đầu, tránh “chọn bên”, song kiên quyết, kiên trì giữ vững nguyên tắc; đối thoại, hợp tác để xử lý các khác biệt, bất đồng, bảo đảm hài hòa lợi ích, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, với tầm nhìn chiến lược là phục vụ mục tiêu an ninh, hòa bình, phát triển của đất nước. Điều này đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh trong bài phát biểu tại Hội nghị Quân chính toàn quân ngày 20/12/2022: “Kịp thời nhận diện, xử lý đúng đắn, hài hòa, linh hoạt đối tác, đối tượng quốc phòng, không để bị động, bất ngờ; ngăn ngừa nguy cơ xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, phụ thuộc, không “chọn bên”(3).
Thời gian qua, bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều biến động phức tạp; cuộc cạnh tranh, thậm chí có lúc lên tới mức đối đầu giữa các nước lớn hiện nay đang đặt nhân loại trước những hiểm họa khôn lường, khó dự đoán. “Cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn sẽ ngày càng quyết liệt, thậm chí có nguy cơ xung đột, đối đầu, tạo thách thức rất lớn đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước có độ mở của nền kinh tế cao, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh còn hạn chế như nước ta”(4).
Trong điều kiện tình hình thế giới vô cùng nhạy cảm, phức tạp hiện nay, Việt Nam kiên trì thực hiện chính sách “bốn không”: không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy và đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, là thượng sách để giữ vững hòa bình đất nước, giữ vững chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong quan hệ đối ngoại, Việt Nam đã phát huy sức mạnh “Ngoại giao cây tre”: mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo, nhưng rất bản lĩnh, kiên định, như chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29 (năm 2016) và tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc năm 2921, góp phần giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong mọi hoàn cảnh và mọi thời điểm. Cứng mà không gãy, đa phương mà không phụ thuộc, “Ngoại giao cây tre Việt Nam” thời gian qua bằng sự uyển chuyển, khéo léo và mềm dẻo trong quan hệ với từng nước, song cũng kiên trì, kiên quyết trong ứng xử những vấn đề thuộc về nguyên tắc “bình đẳng, tôn trọng chủ quyền, quyền và lợi ích chính đáng, giải quyết bất đồng trên tinh thần hữu nghị, tuân thủ triệt để Hiến chương Liên hợp quốc và phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế”, không chỉ khai thông “thế khó” của Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh nước lớn, mà còn tạo ra được mạng lưới lợi ích đan xen, lồng ghép giữa lợi ích quốc gia với lợi ích tổ chức khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế đất nước, góp phần bảo vệ và bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc.
Như vậy, quan điểm cổ xúy cho việc “chọn bên” hoàn toàn đi ngược lại với đường lối, chủ trương của Đảng, trái chiều với lợi ích quốc gia - dân tộc. Chúng ta không chọn bên mà chọn chính nghĩa, lẽ phải. Trong bài phát biểu tại Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế Mỹ (CSIS) ngày 12/5/2022, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nêu rõ: “Trong một thế giới đầy biến động, cạnh tranh chiến lược và nhiều sự lựa chọn, Việt Nam không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và lẽ phải trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc; bình đẳng, tất cả cùng có lợi, tất cả cùng chiến thắng”. Chọn chính nghĩa là chọn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị hợp tác và phát triển của đất nước ta. Chọn lẽ phải là chọn hòa bình và phát triển thịnh vượng của thế giới.
Chúng ta chọn hòa bình bởi Việt Nam đã trải qua các cuộc trường kỳ kháng chiến chống xâm lược, các thế hệ người Việt Nam đã đổ bao xương máu để giành và giữ nền độc lập, tự do dân tộc, sự vẹn toàn của bờ cõi, chủ quyền đất nước, nhưng Việt Nam luôn khẳng định tính chính nghĩa và tinh thần yêu chuộng hòa bình. Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, khát vọng hòa bình cũng chính là khát vọng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và ngày nay là khát vọng phồn vinh, hạnh phúc, tự cường.
Chúng ta chọn phát triển, hợp tác vì đó là sự lựa chọn hợp lẽ, vì mục tiêu phát triển đất nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, phù hợp với xu hướng chung của tất cả các nước trên thế giới. Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu đến năm 2025, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp, đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Khát vọng phát triển của đất nước gắn liền với khát vọng hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của cả khu vực và thế giới.
Sự lựa chọn đó của Việt Nam phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc. Và chỉ có đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại mới có thể bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, đưa đất nước phát triển hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc./.
______________________________________________________
(1) Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H., t. 5, tr.136
(2) Việt Nam có 5 đối tác chiến lược toàn diện, đó là Trung Quốc (nâng cấp quan hệ năm 2008), Nga (năm 2012), Ấn Độ (năm 2016), Hàn Quốc (năm 2022), Mỹ (năm 2023).
(3) Nguyễn Phú Trọng (2023), Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., tr.177
(4) Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bế mạc Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, https://vtv.vn/chinh-tri/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-be-mac-hoi-nghi-trung-uong-8-khoa-xiii-20231008 162333305.htm
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 23/11/2023
Bài liên quan
- Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
- Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
- Nhận diện và xử lý những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong sách tôn giáo
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do các yếu tố chủ quan và khách quan mang lại. Lan toả các giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiếp tục đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vấn đề của hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay là làm sao thu hút được sự quan tâm của đại bộ phận nhân dân, để nhân dân tin tưởng và làm theo Đảng thông qua những nội dung gần gũi, sinh động, hấp dẫn và hiện đại. Hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt truyền thông xã hội và hiện tượng truyền thông hoá.
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do các yếu tố chủ quan và khách quan mang lại. Lan toả các giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiếp tục đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vấn đề của hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay là làm sao thu hút được sự quan tâm của đại bộ phận nhân dân, để nhân dân tin tưởng và làm theo Đảng thông qua những nội dung gần gũi, sinh động, hấp dẫn và hiện đại. Hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt truyền thông xã hội và hiện tượng truyền thông hoá.
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả là một biến thể nguy hại của chủ nghĩa cá nhân, trái ngược với những yêu cầu về phẩm chất đích thực và đạo đức cách mạng. Vì vậy, ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả là loại bỏ những thói hư tật xấu đang ngấm ngầm làm tha hóa cán bộ, đảng viên. Chống uy tín giả cũng là chống chủ nghĩa cá nhân, củng cố uy tín đích thực của người cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả nảy sinh, xâm nhập, lây lan trong đời sống chính trị, xã hội do nhiều nguyên nhân, trong đó, yếu tố chủ quan của tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên là nguyên nhân trực tiếp, phổ biến.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Một trong những nguy cơ ngấm ngầm tạo ra sự ghen ghét, đố kỵ, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, làm suy yếu tổ chức, suy yếu tập thể là uy tín giả. Nghiêm trọng hơn, nó còn thúc đẩy sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân rất nguy hại. Suy rộng ra, uy tín giả hủy hoại nghiêm trọng thanh danh của Đảng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta nếu không được nhận diện, đấu tranh, ngăn chặn.
Bình luận