Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
1. Kết quả ngăn chặn đẩy lùi suy thoái và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong 5 năm qua
Ngày 30.10.2016, Nghị quyết số 04-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII(1) được ban hành. Việc cụ thể hóa và thể chế hóa nội dung Nghị quyết 04 được nghiên cứu tham mưu từ Trung ương tới cơ sở, cụ thể: Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành Kế hoạch và 45 nghị quyết, quy định, chỉ thị, kết luận để thực hiện; Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thể chế hóa nội dung Nghị quyết số 04 thông qua việc xây dựng chương trình sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản pháp luật hằng năm. Các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương đã ban hành khoảng 2.000 nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành động, kế hoạch, đề án, quy định, quy chế, hướng dẫn để triển khai thực hiện; cấp ủy cấp huyện, cấp cơ sở ban hành nhiều văn bản nhằm cụ thể hóa phù hợp với đặc điểm tình hình địa phương, đơn vị để tổ chức thực hiện.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 04 khóa XII, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ được thực hiện quyết liệt, có hiệu quả hơn, kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống”, đạt kết quả cao hơn, mạnh mẽ, kiên quyết hơn so với kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI.
Nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên bước đầu có chuyển biến tích cực trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nhiều cán bộ, đảng viên đã chủ động, nêu cao trách nhiệm, nhìn thẳng vào yếu kém, khuyết điểm, tự giác nhận diện mức độ biểu hiện suy thoái của bản thân và kịp thời đề ra giải pháp khắc phục, sửa chữa; đồng thời, phát hiện, góp ý cho cán bộ, đảng viên khác khắc phục, sửa chữa khuyết điểm.
Nghị quyết số 04 khóa XII đã nhận diện tương đối cụ thể, đầy đủ và hệ thống về 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng, “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Trong 5 năm thực hiện, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã phát hiện, xử lý kỷ luật 25.104 đảng viên suy thoái hoặc có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chiếm 0,5% tổng số đảng viên toàn Đảng. Mỗi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đều có đảng viên vi phạm và bị xử lý kỷ luật. Đảng viên suy thoái về đạo đức, lối sống chiếm tỷ lệ cao nhất (15.101 đảng viên, chiếm 60,1% tổng số đảng viên bị xử lý kỷ luật); tiếp đến là đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị (8.281 đảng viên, chiếm 33% tổng số đảng viên bị xử lý kỷ luật); tỷ lệ thấp nhất là đảng viên có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” (1.722 đảng viên, chiếm 6,9% tổng số đảng viên bị xử lý kỷ luật)(2).
Việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn có hạn chế, khuyết điểm. Cụ thể, “một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình, công tác kiểm tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng còn hạn chế. Cơ chế kiểm soát quyền lực và chế tài xử lý vi phạm ở nhiều lĩnh vực chưa có hoặc có nhưng chưa cụ thể, hiệu quả thực thi thấp. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên chưa hiệu quả; chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch”(3).
Việc thực hiện Nghị quyết số 04 khóa XII còn nhiều hạn chế, khuyết điểm như nêu trên, cần phải tiếp tục khắc phục để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, sức chiến đấu của cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Việc ban hành Kết luận số 21 là thể hiện nỗ lực liên tục, quyết tâm cao hơn nữa trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu mới hiện nay.
2. Những điểm mới đột phá thể hiện trong Kết luận số 21
Kết luận số 21 nêu rõ mục tiêu tổng hợp, bao quát cả hệ thống chính trị, thể hiện rõ chủ trương, đường lối nhất quán và ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt của Đảng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Mục tiêu là: đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “xây” và “chống”, xây là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên. Tạo bước phát triển mới của Đảng về trí tuệ, bản lĩnh chính trị, thực sự là đạo đức, là văn minh, ngày càng gắn bó mật thiết với nhân dân, ngày càng được nhân dân tin tưởng; đủ uy tín và năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nội dung Kết luận số 21 có nhiều điểm mới đột phá so với Nghị quyết số 04 khóa XII. Cụ thể: (1) phạm vi xây dựng và chỉnh đốn không chỉ là chủ thể Đảng mà bao quát tổng thể cả hệ thống chính trị: “Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị”, là hết sức phù hợp trong tình hình hiện nay. Quan điểm nhất quán và xuyên suốt của Đảng là phải tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng để Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Sự trong sạch, vững mạnh của Đảng gắn liền với sự trong sạch, vững mạnh của cả hệ thống chính trị. (2) nhấn mạnh tới sự quyết liệt, dứt khoát, “kiên quyết ngặn chặn, đẩy lùi suy thoái...”. Thực hiện Nghị quyết số 04 khóa XII đạt thành công bước đầu, nhưng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Chính vì vậy, Kết luận số 21 thể hiện quyết tâm chính trị cao hơn, tiếp tục chỉ đạo tìm giải pháp khả thi, kiên quyết xử lý triệt để, làm cho Đảng ta trong sạch hơn, vững mạnh hơn, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng; (3) bổ sung “xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái...”.
Điều này khẳng định quyết tâm cao của Đảng trong việc xử lý cán bộ, đảng viên có sai phạm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ; (4) nhấn mạnh hướng phát triển là “tạo bước phát triển mới của Đảng về trí tuệ, bản lĩnh chính trị, thực sự là đạo đức, là văn minh”. Để đáp ứng yêu cầu tình hình mới hiện nay, như phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế sâu rộng, thích ứng với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Đảng phải hội tụ đội ngũ đảng viên thực sự có bản lĩnh chính trị dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực sự tinh tú, trí tuệ, đủ khả năng lãnh đạo phát triển đất nước và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Kết luận cụ thể hóa nhiệm vụ của Đại hội XIII đã đặt ra là “tập trung xây dựng Đảng về đạo đức”.
Kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với hệ thống các giải pháp, hành động quyết liệt, không khoan nhượng để loại bỏ sự suy thoái và biến chất của cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị. Những hành động, tác động này được quy định rõ trong các nghị quyết, quy định, quy chế, chỉ thị, kết luận của Đảng và thể chế hóa thành chính sách, pháp luật của Nhà nước, với các chế tài, công cụ, bộ máy tổ chức thực thi hiệu lực, hiệu quả.
Tất cả hệ thống chính trị đều có vai trò, trách nhiệm trong ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Thành công trong cuộc đấu tranh này góp phần quan trọng vào việc nâng cao sức chiến đấu của đảng viên, tổ chức đảng và năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch và vững mạnh, đáp ứng yêu cầu tình hình mới.
Nhiều công cụ can thiệp, biện pháp tác động tới ý thức, hành vi của mọi cán bộ, đảng viên làm việc trong hệ thống chính trị, bao trùm tất cả lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội. Hệ thống công cụ, biện pháp cần được xây dựng toàn diện, liên thông; triển khai đồng bộ, liên tục; tăng cường kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, quyết liệt trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi và xử lý nghiêm cán bộ suy thoái, tiêu cực.
Kết luận xác định rõ 5 nhóm nhiệm vụ giải pháp, gồm: (1) tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, tự phê bình và phê bình; (2) tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu gắn với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; (3) tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách; (4) tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm; (5) phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Các giải pháp gắn kết hữu cơ, tương hỗ lẫn nhau, tạo tác động tổng hợp hướng tới đạt mục tiêu như Kết luận đề ra. Cần triển khai các giải pháp đồng bộ, kịp thời từ Trung ương tới cơ sở để hiệu lực, hiệu quả Kết luận cao nhất.
Kết luận tạo được sự thống nhất về nhận thức và hành động trong toàn Đảng, hệ thống chính trị và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân. Đó là sức mạnh lan tỏa rộng khắp trong xã hội. Trong thời gian tới, cần tập trung thể chế hóa, cụ thể hóa kịp thời Kết luận, tạo sự đồng bộ, thống nhất với đường lối, chủ trương của Đảng, với chính sách, pháp luật của Nhà nước để các nội dung Kết luận đi vào cuộc sống thiết thực nhất.
3. Quyết tâm chính trị cao của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, ban, bộ, ngành và đảng viên trong tổ chức thực hiện Kết luận số 21
Kết luận số 21 đang được tổ chức triển khai từ Trung ương tới cơ sở, phổ biến tới từng đảng viên. Bộ Chính trị ban hành Kế hoạch số 03-KH/TW ngày 01.12.2021 về thực hiện Kết luận số 21. Ngày 9.12.2021, Bộ Chính trị đã tổ chức Hội nghị cán bộ toàn quốc về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm triển khai thực hiện Kết luận số 21-KL/TW và Quy định số 37-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.
- Cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị các cấp và đảng viên phải nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; từ đó nêu cao trách nhiệm, quyết tâm chính trị, tinh thần tự giác, gương mẫu trong việc thực hiện Kết luận; tạo bước chuyển biến rõ rệt, hiệu quả, thiết thực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan ban, bộ, ngành chủ động xây dựng và thực hiện nghiêm chế độ học tập lý luận thường xuyên, định kỳ cho cán bộ, đảng viên.
- Để triển khai hiệu quả, tạo tác động lan tỏa trong toàn hệ thống chính trị, cần thực hiện Kết luận đồng bộ với việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Kết luận số 01-KL/TW ngày 18.5.2021 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Quy định số 37 về những điều đảng viên không được làm, Quy định số 101, 55 và 08 về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên.
- Tổ chức triển khai thực hiện Kết luận nghiêm túc, thiết thực, bảo đảm thực chất, hiệu quả, tuyệt đối không được hình thức, chiếu lệ. Các cấp uỷ và tổ chức đảng, các ban, bộ ngành, các cơ quan, đơn vị trong toàn hệ thống chính trị cần khẩn trương xây dựng kế hoạch hành động, chương trình học tập, quán triệt và triển khai thực hiện kết luận, quy định, gắn với tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, ban, bộ ngành, cơ quan, đơn vị mình.
- Tăng cường đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp dạy và học tập lý luận chính trị, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục chính trị tư tưởng. Cần tận dụng tối đa các công cụ công nghệ trong điều kiện Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để thiết kế các hình thức học tập lý luận chính trị phù hợp như các cổng điện tử, online, internet, các mạng xã hội zalo, viber,... Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan báo chí, truyền thông trong việc tuyên truyền nội dung, phổ biến những mô hình hay, điển hình tiên tiến trong việc tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, tham gia tích cực vào việc ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
- Đề cao ý thức trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong việc nghiên cứu, vận dụng các nghị quyết, quy định, chỉ thị, kết luận của Đảng vào công tác, gương mẫu trong việc học tập lý luận chính trị; đề cao ý thức tự học tập, tự rèn luyện để nâng cao chuyên môn, kỹ năng, bản lĩnh chính trị; không tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Nâng cao tinh thần phê và tự phê bình trong công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là người đứng đầu phải gương mẫu, nghiêm túc tự phê bình, kiểm điểm, tự soi lại mình, đơn vị mình, gia đình mình, cái gì tốt thì phát huy, cái gì khiếm khuyết thì tự điều chỉnh, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa mình(4).
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác phối hợp của các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội trong việc triển khai học tập nghị quyết Trung ương và học tập lý luận chính trị nói chung. Phát huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết Trung ương, trong đó có Kết luận số 21. Phát huy vai trò của ủy ban kiểm tra các cấp, coi trọng công tác tự kiểm tra, tự giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị; giữ gìn kỷ cương, kỷ luật của Đảng; kiên quyết xử lý nghiêm các tập thể, cá nhân suy thoái, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước./.
__________________
(1) Nghị quyết số 04-NQ/TW (Hội nghị Trung ương 4 khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
(2) Báo cáo số 19-BTC/BCĐ ngày 9.10.2021 về Kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30.10.2016 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
(3) Kết luận số 21-KL/TW ngày 25.10.2021 (Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
(4) Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngày 9.12.2021.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 13.4.2022
Bài liên quan
- Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
- Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
- Nhận diện và xử lý những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong sách tôn giáo
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất, Người đã để lại di sản quý báu về tư tưởng, đạo đức, phong cách cho Đảng và Nhân dân ta. Di sản Hồ Chí Minh bao quát rộng lớn các vấn đề của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến lời dạy của Người trong Thư gửi “Quân nhân học báo” tháng 4/1949: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”(1) là vấn đề có ý nghĩa thời sự đối với việc nghiên cứu, học tập của cán bộ, đảng viên nói chung, giảng viên làm công tác giảng dạy lý luận chính trị nói riêng hiện nay.
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do các yếu tố chủ quan và khách quan mang lại. Lan toả các giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiếp tục đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vấn đề của hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay là làm sao thu hút được sự quan tâm của đại bộ phận nhân dân, để nhân dân tin tưởng và làm theo Đảng thông qua những nội dung gần gũi, sinh động, hấp dẫn và hiện đại. Hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt truyền thông xã hội và hiện tượng truyền thông hoá.
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả là một biến thể nguy hại của chủ nghĩa cá nhân, trái ngược với những yêu cầu về phẩm chất đích thực và đạo đức cách mạng. Vì vậy, ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả là loại bỏ những thói hư tật xấu đang ngấm ngầm làm tha hóa cán bộ, đảng viên. Chống uy tín giả cũng là chống chủ nghĩa cá nhân, củng cố uy tín đích thực của người cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả nảy sinh, xâm nhập, lây lan trong đời sống chính trị, xã hội do nhiều nguyên nhân, trong đó, yếu tố chủ quan của tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên là nguyên nhân trực tiếp, phổ biến.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Một trong những nguy cơ ngấm ngầm tạo ra sự ghen ghét, đố kỵ, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, làm suy yếu tổ chức, suy yếu tập thể là uy tín giả. Nghiêm trọng hơn, nó còn thúc đẩy sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân rất nguy hại. Suy rộng ra, uy tín giả hủy hoại nghiêm trọng thanh danh của Đảng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta nếu không được nhận diện, đấu tranh, ngăn chặn.
Bình luận