Đề xuất một hướng tiếp cận cho phát thanh dân tộc
Nhìn lại mô hình
Mô hình trên đây cho thấy: Công chúng của cộng đồng dân tộc thiểu số vốn là công chúng chuyên biệt được cổ vũ, khích lệ, được cung cấp thông tin, thậm chí có diễn đàn để trao đổi và nghe nhìn thấy dư luận xã hội... nhưng hầu như họ thiếu vắng những tư vấn - chỉ dẫn để hỗ trợ kĩ năng thiết thân với đời sống, đặc biệt là những thuyết phục để họ thay đổi nhận thức ngõ hầu dần dần thay đổi hành vi. Hơn thế nữa, mỗi thành viên cộng đồng dân tộc đều cảm thấy những gì tuyên truyền từ đài, báo tuy là những thông tin tốt nhưng cho tất cả một đám đông rộng lớn chứ “không phải” cho riêng mình và thậm chí đó là chuyện của người khác.
Vượt trội trong xử lí khủng hoảng địa phương
Trên thực tế, những chiến dịch truyền thông mà nhất là truyền thông cộng đồng đã đem lại những hiệu quả đáng khích lệ, thiết thân với đời sống từng cá thể của cộng đồng và có sức mạnh làm thay đổi nhận thức cũng như hành vi của họ.
Đó chẳng hạn là những chiến dịch đã được tổ chức rất thành công trên những quy mô địa phương khác nhau, trong những thời điểm khác nhau và bởi những tổ chức đơn vị khác nhau: chiến dịch truyền thông phòng chống sốt xuất huyết, tệ nạn ma túy, nghiện rượu, mại dâm, tảo hôn, bạo lực gia đình,...; chiến dịch truyền thông sinh đẻ có kế hoạch, tiêm chủng, cho trẻ bú sữa mẹ, cô đỡ thôn bản,..; chiến dịch truyền thông về an toàn thực phẩm, về tác hại thuốc lá...
Nhìn ra sức mạnh và tính thích hợp của truyền thông đối với cộng đồng dân tộc thiểu số, chúng tôi đề xuất hướng làm phát thanh cho đồng bào dân tộc theo cách làm của truyền thông, đặc biệt là của truyền thông cộng đồng. Cách này có khả năng tác động trực tiếp, riêng rẽ đến từng thành viên cộng đồng và đem lại lợi ích thiết thân nhất cho chính họ cũng như gia đình và cộng đồng của họ.
Mục tiêu lớn nhất và chủ đạo của hướng làm phát thanh này là: Thuyết phục để thay đổi và Quản trị khủng hoảng ở địa phương, bao gồm khủng hoảng dịch bệnh, thiên tai (bão lũ, sạt lở đất, động đất...), và đặc biệt là khủng hoảng đám đông.
So với báo in và truyền hình thậm chí là báo mạng thì phát thanh gần như có ưu thế vượt trội trong xử lí khủng hoảng địa phương. Dễ hiểu là “Phát thanh có khả năng cứu sống con người” (Thông điệp của UNESCO nhân Ngày phát thanh thế giới năm 2016). Bị lâm vào thảm họa, con người cần được chỉ dẫn cách thức thoát hiểm, mong được thắp niềm tin và trấn an tâm lý trong khủng hoảng. Nếu làm phát thanh theo hướng của truyền thông như chúng tôi đề xuất thì việc nhắm đến mục tiêu thứ hai này dường như không mấy khó khăn và đương nhiên hiệu quả đạt được sẽ không hề nhỏ.
Ai sẽ làm phát thanh theo cách của truyền thông cộng đồng?
Trong khi chúng ta chưa có được nhân lực đủ mạnh hoặc đồng đều ở nhiều dân tộc thiểu số có thể làm phát thanh theo hướng vừa nói thì
đội ngũ phát thanh dân tộc chuyên nghiệp sẽ chuyển dần từ cách làm truyền thống là dịch Việt - dân tộc rồi phát sóng, sang hỗ trợ người dân tộc và cùng với người dân tộc làm phát thanh bằng bản ngữ hoặc ngôn ngữ của dân tộc có sức ảnh hưởng. Việc hỗ trợ này chủ yếu là về nghiệp vụ, nhưng rất cần đề cao hay chú trọng vào: đối thoại bằng cảm xúc; chỉ dẫn bằng thao tác; thuyết phục bằng lợi ích.
Đối thoại bằng cảm xúc
Ngoại trừ nỗ lực sáng tạo của một vài nhà báo làm phát thanh dân tộc trong mấy năm qua đã sản xuất những chương trình phát thanh dân tộc mang màu sắc đối thoại rất thú vị và hấp dẫn, hầu hết sản phẩm phát thanh dân tộc, nhất là của các đài phát thanh địa phương có đồng bào dân tộc, đều làm theo lối dịch Việt dân tộc và độc thoại.
Thính giả dân tộc nghe thấy ở đó sự phản ảnh tốt đẹp về đời sống của họ, nhưng một mặt như trên đã nói, họ luôn cảm thấy nói cho “không phải mình”.
Mặt khác sự phản ánh thiếu vắng cảm xúc, trong khi dư thừa những từ mô tả trạng huống hay mệnh lệnh vốn bị nhầm là cảm xúc, nên khó lọt tai họ. Cảm xúc sẽ có /bắt đầu từ những trường hợp thực và từ cá thể ở cộng đồng (em bé bị thương tích, người phụ nữ bị bạo hành, cô bé /cậu bé tảo hôn, anh nát rượu, kẻ cờ bạc, hoặc người / những người bị rủi ro thương tâm do thiếu kĩ năng sống). Đặc biệt cảm xúc chỉ có thể được thính giả dân tộc cảm nhận khi những trường hợp cá thể này được truyền trên sóng hay loa truyền thanh bằng bản ngữ của chính người nói hoặc cùng lắm là bằng ngôn ngữ có ảnh hưởng mạnh nhất đến cư dân cộng đồng sống đan xen.
Chỉ dẫn bằng thao tác
Trong xu hướng chung cân bằng giữa thông tin và tư vấn - chỉ dẫn của báo chí những năm gần đây, phát thanh Việt Nam đã nỗ lực gia tăng cách làm sản phẩm có chỉ dẫn. Tuy nhiên, do đặc thù truyền thống “nghe mà không thấy” của phát thanh và do hạn chế của một số người làm phát thanh chưa biết làm cho thính giả “nghe mà như nhìn thấy” nên hiệu quả chỉ dẫn còn ở chừng mức khá khiêm tốn.
Trong khi đó, truyền thông cộng đồng bằng lối truyền thông trực tiếp, thao tác và hành động trực diện đã đạt kết quả khả quan đối với hầu hết các cộng đồng dân tộc. Chính vì vậy, đã đến lúc phát thanh cho đồng bào dân tộc cần nỗ lực thúc đẩy theo hướng gia tăng hướng dẫn kĩ năng về tất cả những lĩnh vực thuộc đời sống thiết thân nhất, phù hợp hoàn cảnh sống nhất, bình dân nhất và có khả năng thực thi cao nhất. Nói cách khác phát thanh dân tộc sẽ cho bà con “nghe mà nhìn thấy” những cách làm dễ hiểu và dễ làm theo.
Thuyết phục bằng lợi ích
Thính giả dân tộc có thể nghe phát thanh và nhìn thấy cách làm dễ hiểu, dễ làm theo, nhưng chưa hẳn đã làm bởi họ còn trông đợi lợi ích. Lợi ích ở đây không hiểu theo nghĩa “cho - nhận”. Cái mà họ trông đợi là hiểu ra rằng nếu làm theo thì đời sống của họ sẽ khỏe mạnh, khấm khá, vui tươi, an lành. Và cái mà họ cũng trông đợi là quyền lợi gia đình họ, cộng đồng dân tộc của họ được cân bằng.
Kinh nghiệm và thực tiễn làm truyền thông tại Dự án thủy điện Trung Sơn (huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa) của chúng tôi mấy năm trước đã cho thấy ít nhất một bài học về câu chuyện lợi ích này: Người dân phải di dời đã so sánh giá đền bù cây luồng ở nơi mình ở với tỉnh bên cạnh; Họ cân nhắc việc nuôi lợn đen hay trắng tại nơi ở mới, với hỗ trợ tư vấn tạo sinh kế của chuyên gia nông học; Họ có vẻ bằng lòng với những điều kiện này khác khi người có ảnh hưởng kinh tế trong bản thuyết phục họ...)
Tiêu chí chọn một số ngôn ngữ dân tộc
Nếu chấp nhận lối làm phát thanh cho bà con dân tộc theo cách làm của truyền thông cộng đồng thì câu hỏi được đặt ra là: Chọn dùng ngôn ngữ của cộng đồng nào? Hay phát thanh cho cộng đồng nào thì dùng ngôn ngữ của chính cộng đồng đó? Vế thứ hai của câu hỏi này đang là thực tại của phát thanh dân tộc. Tuy nhiên, cho dù các đài phát thanh đã nỗ lực rất lớn và cũng đạt thành công đáng kể với phát thanh dân tộc khi hiện tại chọn 12 thứ tiếng dân tộc làm ngôn ngữ phát sóng, thì rõ ràng tỉ lệ 12/53 là một con số có vấn đề.
Giả định rằng, làm phát thanh dân tộc theo cách làm của truyền thông cộng đồng sẽ đạt hiệu quả hơn so với cách làm truyền thống thì với mỗi cộng đồng dân tộc thiểu số ở nước ta cần có một chương trình phát thanh cho họ. Nhưng xét cả về mặt lí luận lẫn thực tiễn điều này đều không khả thi. Do vậy, trước mắt cần xác lập căn cứ để xây dựng tiêu chí chọn một số ngôn ngữ dân tộc cho phát thanh.
Căn cứ thường được tính đến là số dân của một cộng đồng dân tộc. Tuy nhiên, theo chúng tôi, căn cứ này không vững chắc vì dân tộc có số dân đông hơn chưa hẳn đã tạo được ảnh hưởng đến một hay một số dân tộc khác trong phạm vi địa phương hoặc phạm vi vùng.
Trong bối cảnh cư trú đan xen (chẳng hạn hơn 20 dân tộc cùng chung sống trong một tỉnh) thì dân tộc nào/những dân tộc nào có sức đan xen mạnh, tạo lan tỏa mạnh về văn hóa - xã hội trong tỉnh/vùng thì ngôn ngữ của dân tộc đó sẽ được chọn làm ngôn ngữ phát thanh cho đồng bào dân tộc tỉnh/vùng đó. Những lan tỏa về cách thức giao tiếp, về lễ hội, phong tục tập quán, về những tác phẩm dân gian truyền miệng, có trường học ở bậc cao và đông học sinh... là những lan tỏa rất quan trọng đối với các dân tộc xung quanh. Theo cách này sẽ giảm thiểu được số chương trình cùng một thứ tiếng ở nhiều đài thuộc một vùng. Cơ hội tập trung nguồn lực con người và tài chính cho chương trình về một thứ tiếng dân tộc ở một đài dùng chung cho cả vùng sẽ tăng cao và cùng với đó, chất lượng chương trình tiếng dân tộc cho bà con sẽ tăng khả năng thuyết phục.
Dân tộc có sức ảnh hưởng/uy tín cao tại địa phương, có khả năng quy tụ và có quan hệ mật thiết với nhiều dân tộc anh em trong tỉnh /vùng nhờ sức mạnh phát triển kinh tế. Biểu hiện của sự phát triển này là sản phẩm kinh tế được lưu truyền rộng rãi, kĩ thuật canh tác nuôi trồng tiến bộ, giao thương tấp nập... chính là những biểu hiện của khả năng quy tụ. Khi đã quy tụ được thì ảnh hưởng / chịu ảnh hưởng là đương nhiên và không mấy khó khăn về tiếp xúc ngôn ngữ.
Vì phát thanh là báo chí nên việc tìm chọn ngôn ngữ dân tộc nào cho phát thanh không thể không tính đến tiêu chí mục tiêu của báo chí hướng đến dân tộc nào nhiều hơn và vì sao;
Dân tộc nói thứ tiếng mà nhiều dân tộc sống lân cận hoặc đan xen có khả năng tiếp nhận. Thậm chí trong môi trường đa ngữ, tiếp xúc ngôn ngữ sẽ làm cho một ngôn ngữ nào đó bị yếu đi, khi đó ngôn ngữ mạnh hơn sẽ có thể được coi là ngôn ngữ vùng.
Dân tộc có phạm vi cư trú rộng hơn (sống ở nhiều tỉnh/vùng);
Dân tộc có địa bàn cư trú thuận lợi hơn cho truyền thông cộng đồng trong tỉnh/vùng;
Dân tộc có nhiều nhân vật tham gia tích cực với cộng đồng mình và cộng đồng địa phương;
Việc nghiên cứu lí luận và phân tích định lượng cho những căn cứ này hoặc đã được thể hiện trong chừng mức nào đó ở một vài công trình nghiên cứu gần đây hoặc sẽ là đề tài cho một hoặc một số dự án cần triển khai trong tương lai gần./.
________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Allan Bell,The Language of the news media (Ngôn ngữ truyền thông), Blackwell Publishers UK, USA, 1991, 1993, 1994.
2. Vũ Quang Hào, Hệ phát thanh và những tiêu chí đánh giá chất lượng, Tạp chí Người Làm Báo, số tháng 6.2007.
3. Vũ Quang Hào (2007), Nhu cầu và khả năng tiếp nhận phát thanh bằng tiếng dân tộc ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, Công trình nghiên cứu cấp Đại học Quốc gia, Mã số: QG 05.43, Hà Nội.
4. Vũ Quang Hào, Một thảo luận về công chúng chuyên biệt của truyền thông dân tộc (trên cứ liệu phát thanh dân tộc), Tạp chí “Nghề báo”, TP. HCM, số 102 - 103, tháng 4 - 5 .2011.
5. Nguyễn Văn Khang, Tiếp xúc giữa các ngôn ngữ tại vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay, Tan Trao University Journal of science 24 No. 04 November 2016.
6. Michael Schudson (2003), Sức mạnh của tin tức truyền thông, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Vương Xuân Tình, Nghiên cứu về quan hệ dân tộc ở Việt Nam (từ năm 1980 đến nay), Web Viện Hàn lâm KHXHVN, đăng ngày 30.10.2014.
Vũ Quang Hào
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Người Làm Báo ngày 05.10.2017
Bài liên quan
- Ảnh hưởng của tính minh bạch và cá nhân hóa trong nền tảng VieON đến sự hài lòng của người dùng
- Thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long trên truyền hình Việt Nam hiện nay
- Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
- Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
- Nâng cao năng lực tư duy phản biện và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ báo chí - truyền thông trong bối cảnh thông tin hiện nay
Xem nhiều
-
1
Xây dựng khung đạo đức và quản trị trí tuệ nhân tạo (AI) trong truyền thông chính sách tại Việt Nam
-
2
Nâng cao năng lực số cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam hiện nay
-
3
Xử lý khủng hoảng của doanh nghiệp sản xuất và phân phối thực phẩm chế biến sẵn tại Việt Nam
-
4
Phim Tài liệu: Video Khoa xây dựng Đảng 50 năm Xây dựng và Phát triển
-
5
Các xu hướng sáng tạo nội dung truyền thông marketing hiện nay
-
6
Nâng cao chất lượng hoạt động của Đảng ủy phường Yên Bái, tỉnh Lào Cai hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Liên kết phát hành trực tuyến - Lối đi riêng cho các nhà xuất bản trong kỷ nguyên số
Bài báo nghiên cứu khoa học này phân tích toàn diện thực trạng liên kết phát hành xuất bản phẩm (XBP) trên các sàn thương mại điện tử (TMĐT) tại Việt Nam giai đoạn 2020 đến nay. Hiện nay, các nhà xuất bản (NXB) đã tận dụng lợi thế về lưu lượng truy cập và logistics của các đối tác liên kết (ĐTLK) như Shopee và Tiki để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD), nhưng sự tham gia vào TMĐT lại bộc lộ không ít thách thức với các NXB, bao gồm nạn sách lậu (sách vật lý và sách số hóa trái phép) tràn lan trên sàn, phá vỡ kế hoạch phát hành chính thống, cùng với việc NXB mất kiểm soát về giá bán lẻ và đặc biệt là tình trạng NXB thiếu dữ liệu khách hàng do phụ thuộc vào ĐTLK. Chính vì lý do trên, bài nghiên cứu khẳng định “lối đi riêng” mang tính quyết định cho các NXB trong kỷ nguyên số chính là chiến lược chuyển đổi sang mô hình bán hàng trực tiếp đến khách hàng (D2C - Direct to Customer), lấy dữ liệu khách hàng làm trung tâm. Từ đó, đề xuất một số giải pháp phát triển mô hình hoạt động kinh doanh, năng lực công nghệ và khả năng kiểm soát bản quyền/thị trường của các NXB để họ có thể tự chủ và thành công trong môi trường số hóa (thông qua chiến lược D2C lấy dữ liệu khách hàng làm trung tâm).
Ảnh hưởng của tính minh bạch và cá nhân hóa trong nền tảng VieON đến sự hài lòng của người dùng
Ảnh hưởng của tính minh bạch và cá nhân hóa trong nền tảng VieON đến sự hài lòng của người dùng
Nghiên cứu này kiểm định mô hình mối quan hệ giữa nhận thức về đề xuất nội dung, cảm nhận kiểm soát, mức độ hài lòng và ý định tiếp tục sử dụng, với trường hợp điển hình là VieON. Khảo sát trực tuyến được thực hiện với 224 người dùng, sử dụng các thang đo đã kiểm định qua Cronbach’s Alpha, EFA, phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính, đồng thời kiểm soát các biến giới tính, độ tuổi và tần suất sử dụng. Kết quả cho thấy độ phù hợp và minh bạch (FT) là yếu tố quyết định cả sự hài lòng và ý định sử dụng, trong khi tính hữu ích của gợi ý (RU) chỉ có tác động bổ sung và không còn ý nghĩa khi dự báo sự hài lòng. Mức độ hài lòng (SAT) không giữ vai trò trung gian quan trọng, do ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ từ FT và RU. Các đặc điểm nhân khẩu học cũng tạo ra khác biệt đáng kể. Nghiên cứu khẳng định minh bạch và cá nhân hóa trong hệ thống gợi ý là đòn bẩy chiến lược giúp các nền tảng OTT củng cố niềm tin và lòng trung thành của người dùng.
Thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long trên truyền hình Việt Nam hiện nay
Thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long trên truyền hình Việt Nam hiện nay
Trước thực trạng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang chịu tác động nặng nề từ biến đổi khí hậu (BĐKH), Nghị quyết 120/NQ-CP (2017) của Chính phủ đã đề ra phương châm “thuận thiên”, định hướng phát triển bền vững thông qua thích ứng với tự nhiên, chuyển hóa thách thức thành cơ hội. Song hành cùng quá trình này, báo chí - truyền thông, đặc biệt là truyền hình, giữ vai trò then chốt trong việc lan tỏa mô hình sản xuất bền vững, giới thiệu sáng kiến thành công và nâng cao nhận thức cộng đồng. Tuy vậy, truyền hình vẫn đối mặt với thách thức về thời lượng, kinh phí và xu hướng công chúng chuyển sang nền tảng số, đòi hỏi sự đổi mới trong cách thức truyền tải thông tin để tiếp tục đồng hành cùng người dân ĐBSCL trong hành trình thích ứng với BĐKH.
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
Kỷ nguyên mới đặt ra những thách thức mới cho báo chí – truyền thông Việt Nam. Đã có một sự thay đổi rõ nét về khái niệm, mô hình tổ chức, nội dung và mối quan hệ với công chúng dưới tác động của công nghệ số. Trong quá trình đó, vai trò định hướng xuyên suốt của Đảng trong phát triển báo chí cách mạng, nhất là trong giai đoạn 2006–2025 là đặc biệt sâu sắc. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất các yêu cầu cấp thiết và ba nguyên tắc cốt lõi nhằm phát triển nền báo chí – truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới.
Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
Báo chí đa nền tảng (Multi platform journalism) đã trở thành xu hướng tất yếu trên thế giới và tại Việt Nam những năm gần đây. Tại Việt Nam, sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu 70% cơ quan báo chí đưa nội dung lên các nền tảng số vào năm 2025 và 100% vào năm 2030, báo chí đa nền tảng càng được các tòa soạn đầu tư phát triển, tập trung vào ba nền tảng chính: nền tảng xã hội (social), nền tảng di động (mobile), nền tảng web. Bài viết sẽ đi sâu vào nghiên cứu về sự phát triển của xu hướng báo chí đa nền tảng ở Việt Nam hiện nay, những vấn đề đặt ra ở góc độ nguồn nhân lực, từ đó, đề xuất một số giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực báo chí truyền thông đáp ứng nhu cầu phát triển báo chí đa nền tảng tại Việt Nam.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận