Giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở nước ta hiện nay
Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa thể hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, động lực cho sự phát triển đất nước. Để hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, một trong những giải pháp quan trọng là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế. Điều này một mặt vừa phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân, vừa phải bảo đảm trật tự, kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đó là thực hành dân chủ trong khuôn khổ của pháp luật, trong trật tự chung của cộng đồng, tổ chức. Dân chủ nhưng không phải dân chủ chung chung, dân chủ quá trớn, là sự tự do tùy tiện, ai muốn làm gì thì làm. Trái lại, dân chủ phải là sự tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của mỗi cá nhân, tổ chức trong cộng đồng. Nó đòi hỏi việc thực hành dân chủ của người này phải được đặt trong mối quan hệ với dân chủ của các cá nhân, tổ chức khác và do đó phải được đặt trong những khuôn khổ, trật tự chung. Đó chính là kỷ luật, kỷ cương, đó chính là việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng này, điều cần thiết ở nước ta hiện nay là phải hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật, bảo đảm hành lang pháp lý cũng như điều kiện thể chế cho việc thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, giữ vững kỹ luật, kỷ cương xã hội. Đặc biệt, trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với nhiều thành tựu ưu việt có thể hỗ trợ con người giải quyết mọi vấn đề của đời sống xã hội, cần tận dụng những thành tựu to lớn này để giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế. Điều này được thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật nhằm minh bạch thông tin, tạo cơ hội để người dân biết, tham gia giám sát và thực hiện các hoạt động chung của Nhà nước, của các cá nhân, tổ chức có liên quan trực tiếp đến lợi ích của mỗi người dân
Minh bạch thông tin tạo cơ hội cho người dân biết để giám sát hoặc trực tiếp tham gia vào các hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong xã hội là một giải pháp quan trọng bảo đảm quyền làm chủ của người dân. Người dân khó có thể thực hiện quyền làm chủ của mình nếu như khả năng nắm bắt thông tin hạn hẹp, không nhận biết hoặc nhận biết sai lệch, nhận biết không kịp thời về những hoạt động của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Hơn thế nữa, trong một xã hội phát triển, tiếp cận thông tin đã trở thành một trong những quyền cơ bản của con người, được đông đảo cộng đồng quốc tế thừa nhận và bảo vệ, được thể chế thành luật pháp tại nhiều quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, việc minh bạch thông tin và nâng cao khả năng tiếp cận thông tin của người dân đã được Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm thực hiện. Phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng" được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng bổ sung và phát triển là kim chỉ nam cho việc thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng như hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Dân biết và quyền tiếp cận thông tin của người dân vừa được nhìn nhận như một giải pháp nhằm xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; vừa được nhìn nhận như là việc bảo đảm thực hiện các quyền cơ bản của con người, quyền cơ bản của công dân. Quyền này đã được thể chế hóa trong hệ thống luật pháp Việt Nam. Điều 25 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”(1). Không chỉ thừa nhận quyền tiếp cận thông tin của công dân, Hiến pháp năm 2013 cũng khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền này của mỗi công dân.
Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, Luật tiếp cận thông tin đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2018. Luật tiếp cận thông tin “quy định về việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân, nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân”(2). Đây là một bước tiến lớn trong nền lập pháp Việt Nam cũng như trong việc bảo đảm quyền công dân và quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay.
Bên cạnh Luật tiếp cận thông tin, quyền tiếp cận thông tin của công dân cũng được thể chế thông qua nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác như: Luật Báo chí được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017; Luật Khiếu nại, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 11 tháng 11 năm 2011, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2012; Luật Tố cáo, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12 tháng 6 năm 2018, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2019; Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 149/2018/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc; Nghị định số 09/2017/NĐ-CP ngày 09 tháng 02 năm 2017 của Chính phủ quy định chi tiết việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà nước…
Các văn bản quy phạm pháp luật trên đây đã góp phần hoàn thiện thể chế, tạo hành lang pháp lý cơ bản để bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân, từng bước thực hiện minh bạch hóa thông tin, tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, trải qua thực tiễn triển khai có thể thấy người dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thông tin, các thông tin được công khai chưa thực sự đầy đủ, còn chậm trễ. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền làm chủ của nhân dân mà còn tạo kẽ hở để những phần tử thoái hóa, biến chất che dấu những sai phạm, thừa cơ trục lợi; tạo cơ hội cho những kẻ gian manh lừa lọc nhân dân, nhất là trong lĩnh vực liên quan đến mua, bán, chuyển nhượng bất động sản, mua, bán, chuyển nhượng những tài sản bất hợp pháp…
Chính vì vậy, để hoàn thiện hơn nữa thể chế, bảo đảm cho người dân có thể thực hiện được đầy đủ quyền tiếp cận thông tin, qua đó thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của ḿnh, cần bổ sung các quy định sau:
Thứ nhất, khuyến khích và áp dụng các biện pháp bắt buộc khi cần thiết để các cơ quan chức năng ứng dụng những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ nhằm nâng cao khả năng tiếp cận thông tin của người dân. Cần quy định việc đăng tải trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước là hình thức bắt buộc, đồng thời có các biện pháp để các cơ quan nhà nước thực hiện được hình thức công khai thông tin này. Đối với những nơi mà người dân không có khả năng tiếp cận thông tin qua hình thức này thì thực hiện thêm các hình thức cung cấp thông tin khác phù hợp với người dân. Điều này phù hợp với xu thế chung của sự phát triển khoa học, công nghệ hiện nay, tạo điều kiện cho mọi chủ thể có thể tìm kiếm và tiếp cận thông tin một cách dễ dàng.
Thứ hai, thông tin cần công khai là vô cùng lớn và khó có thể liệt kê hết trong các văn bản quy phạm pháp luật. Do vậy, trong các văn bản quy phạm pháp luật có phạm vi điều chỉnh rộng không nên đưa ra nội dung nào cần công khai mà chỉ cần đưa ra nội dung nào không công khai hoặc hạn chế công khai. Khi đưa ra được những nội dung này thì những nội dung nào không nằm trong danh mục không được công khai hoặc hạn chế công khai thì bắt buộc phải thông tin rõ ràng, nêu công khai cho toàn dân biết. Trong hoạt động của mình, các cơ quan chức năng của nhà nước chỉ cần rà soát những nội dung nào cần đưa vào diện không công khai hoặc hạn chế công khai, còn lại tất cả các nội dung liên quan đến hoạt động của cơ quan Nhà nước sẽ phải công khai theo luật định. Như thế sẽ bao phủ hết nội dung cần công khai, tránh bỏ sót, hoặc tạo ra các quy định chồng chéo, gây khó khăn cho việc tiếp cận thông tin của người dân.
2. Hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật nhằm tiếp nhận và sử dụng hiệu quả các nguồn tin cung cấp, các ý kiến góp ý của nhân dân trong hoạt động quản lý của Nhà nước
Các nguồn thông tin, các ý kiến góp ý của nhân dân có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Với khả năng bao phủ rộng, trực tiếp tham gia và chứng kiến mọi hoạt động trong xã hội, người dân có khả năng cung cấp được nguồn thông tin rộng rãi, kịp thời, các ý kiến góp ý xác đáng giúp cho các cơ quan quản lý của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong xã hội nâng cao chất lượng hoạt động của mình. Đồng thời, việc tiếp nhận và sử dụng hiệu quả các nguồn thông tin, các ý kiến góp ý của nhân dân cũng là hình thức quan trọng nhằm đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật nhằm tiếp nhận và sử dụng hiệu quả các nguồn tin cung cấp, các ý kiến góp ý của nhân dân trong quản lý của Nhà nước hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng.
Hiện nay, cơ chế tiếp nhận, xử lý thông tin, ý kiến góp ý của nhân dân đã được thể chế trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, trong đó có các văn bản quan trọng như: Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018, Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Nghị định số 04/2015/NĐ-CP của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 149/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc… Ngoài ra trong Luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hình sự, Luật tố tụng hành chính… đều có các quy định chặt chẽ về việc tiếp nhận thông tin (tài liệu, chứng cứ, bằng chứng…) và xử lý thông tin trong quá trình tố tụng. Đặc biệt, các buổi tiếp xúc cử tri mang tính định kỳ, bắt buộc của các đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp cũng là một kênh thu thập thông tin quan trọng để các cơ quan của Nhà nước thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Mặc dù hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc tiếp nhận, xử lý thông tin, ý kiến góp ý của nhân dân trong hoạt động quản lý của Nhà nước là khá đầy đủ và bao quát tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tuy nhiên hiệu quả của việc tiếp nhận, xử lý thông tin, ý kiến góp ý của nhân dân vẫn chưa thực sự như kỳ vọng. Nhiều nguồn tin do người dân cung cấp chưa được các cơ quan Nhà nước xử lý kịp thời, thậm chí không quan tâm. Tình trạng “cử tri nơi đây đã kiến nghị, phản ánh nhiều lần, nhưng những vi phạm ở đây chưa được xử lý dứt điểm”(3) là thực tế buồn đang diễn ra ở nhiều nơi.
Nhiều nguồn thông tin có giá trị chưa được thừa nhận và sử dụng rộng rãi trong quản lý của Nhà nước, nhất là thông tin bằng hình ảnh do người dân cung cấp. Điển hình nhất là trong quản lý trật tự giao thông hiện nay. Việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này vẫn chủ yếu căn cứ vào việc phát hiện trực tiếp của những người thi hành công vụ, xử phạt ngay tại hiện trường. Việc sử dụng hình ảnh trong xử lý vi phạm an toàn giao thông vẫn chưa được nhân rộng. Các hình ảnh, chứng cứ do người dân cung cấp về các hành vi vi phạm an toàn giao thông vẫn chưa được sử dụng triệt để. Điều này không chỉ làm hạn chế vai trò của người dân trong việc đảm bảo giữ gìn trật tự an toàn giao thông mà còn tạo ra kẽ hở, cơ hội để một bộ phận những người thực thi công vụ thoái hóa biến chất trục lợi trong quá trình xử lý trực tiếp những người vi phạm.
Bên cạnh những hạn chế trong việc tiếp nhận, xử lý thông tin từ phía người dân, việc thực hiện các chính sách khuyến khích để người dân tích cực hơn trong phát hiện và cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý nhà nước cũng chưa được quan tâm đúng mức. Việc khen thưởng, động viên người dân khi cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý nhà nước vẫn còn khiêm tốn, nhất là những thông tin về các hành vi tiêu cực của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Thực tế hiện nay, các hành vi tiêu cực của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước xuất hiện ở nhiều nơi, thông tin do người dân cung cấp về các hành vi tiêu cực này cũng rất nhiều, tuy nhiên lại có rất ít người được động viên, khen thưởng khi cung cấp những thông tin có giá trị cho các cơ quan chức năng của Nhà nước. Việc sử dụng kém hiệu quả các nguồn tin cung cấp từ người dân, chưa quan tâm đúng mức đến việc động viên, khích lệ người dân khi cung cấp các thông tin có giá trị không chỉ làm hạn chế quyền làm chủ của người dân mà còn làm giảm hiệu quả quản lý của các cơ quan chức năng của Nhà nước khi thực thi công vụ.
Do vậy, để hoàn thiện thể chế nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ của người dân, cần tập trung hoàn thiện thể chế để tiếp nhận, xử lý và sử dụng hiệu quả các nguồn tin, các ý kiến góp ý của nhân dân trong hoạt động quản lý của Nhà nước. Điều này đòi hỏi phải thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trong xây dựng văn bản thể chế, đặc biệt là đối với các văn bản qui định về việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của các cá nhân, tổ chức cần thừa nhận và xử lý tất cả các thông tin chính xác do người dân cung cấp. Các thông tin này dù người cung cấp có công khai hay không công khai danh tính thì vẫn phải được coi như những bằng chứng, chứng cứ, tài liệu khách quan và các cơ quan thực thi công vụ bắt buộc phải tiếp nhận và xử lý. Không bỏ qua bất kỳ những thông tin chính xác nào từ phía người dân cung cấp, đồng thời quy định rõ ràng việc áp dụng công nghệ trong việc thu thập và xử lý thông tin từ phía người dân nhằm tạo điều kiện tối đa cho người dân cung cấp thông tin. Thực hiện các chính sách khen thưởng thích đáng đối với những thông tin có giá trị do người dân cung cấp, đồng thời xử lý nghiêm minh các hành vi lơ là, che dấu thông tin gây ảnh hưởng đến lợi ích chung của cộng đồng và xã hội.
Thứ hai, trong thực thi công vụ trên một số lĩnh vực, nhất là trong giữ gìn trật tự an toàn giao thông, phải coi việc “phạt nguội” (không xử phạt trực tiếp tại hiện trường mà sau thời gian nhất định thông qua các chứng cứ từ nhiều nguồn khác nhau) phải là cách thức xử phạt chính, bỏ dần việc xử phạt trực tiếp tại hiện trường. Điều này một mặt sẽ tận dụng được rất nhiều nguồn thông tin từ người dân về các hành vi vi phạm giao thông, đồng thời giảm thời gian làm việc trực tiếp của người thực thi công vụ tại hiện trường, qua đó giảm ùn tắc giao thông, giảm tiêu cực của những người thực thi công vụ.
3. Tăng cường năng lực nhằm phát hiện và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm chuẩn mực đạo đức và các lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Quyền làm chủ của nhân dân sẽ không được bảo đảm nếu tình trạng vi phạm pháp luật vẫn diễn ra, những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp và những lợi ích chính đáng của nhân dân bị vi phạm. Do vậy, phát huy quyền làm chủ của nhân dân không thể tách rời với việc ngăn ngừa, phát hiện và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm chuẩn mực đạo đức và các lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Để làm được điều này, cần hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật theo hướng tăng nặng các chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Thực tế hiện nay cho thấy, đa số các hành vi vi phạm pháp luật không phải do sự kém hiểu biết của người dân mà xuất phát từ sự coi thường, bất chấp các quy định của pháp luật, các quy định chung của cộng đồng. Nhiều cá nhân sẵn sàng đánh đổi theo kiểu “được ăn cả, ngã về không”, “sẵn sàng làm liều”, “hy sinh đời bố, củng cố đời con”, “bố đi tù một thời gian để con sướng cả đời”… Điều này một phần do các chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe, chưa làm cho các cá nhân đó “đủ sợ” để không vi phạm pháp luật. Do vậy, tăng nặng các chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật là yêu cầu cần có để đảm bảo cho người dân thực thi đúng với các quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, cần nâng cao trách nhiệm và xử lý nghiêm minh những người đứng đầu và các cá nhân liên quan trong khi để xảy ra các hành vi vi phạm pháp luật. Đồng thời tăng cường năng lực kiểm tra, giám sát các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kiểm tra, giám sát. Xử lý nghiêm minh những cá nhân, tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát nhưng không phát hiện được các hành vi vi phạm pháp luật, để tình trạng này diễn ra thời gian dài, gây hậu quả xấu cho xã hội./.
___________________________________________________________________
(1) Quốc hội nước Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tr 6.
(2) Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII (2016), Luật tiếp cận thông tin, tr.1.
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Hội thảo khoa học: “Chuyển đổi số trong công tác tư tưởng, lý luận ở Việt Nam hiện nay”
Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão và đóng vai trò then chốt cho sự phát triển, công tác tư tưởng, lý luận cũng đang đứng trước cơ hội để nâng tầm và hoạt động mạnh mẽ, hiệu lực, hiệu quả nếu biết tận dụng tốt những lợi thế cuộc cách mạng chuyển đổi số 4.0 mang lại.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận