Giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở nước ta hiện nay
Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa thể hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, động lực cho sự phát triển đất nước. Để hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, một trong những giải pháp quan trọng là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế. Điều này một mặt vừa phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân, vừa phải bảo đảm trật tự, kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đó là thực hành dân chủ trong khuôn khổ của pháp luật, trong trật tự chung của cộng đồng, tổ chức. Dân chủ nhưng không phải dân chủ chung chung, dân chủ quá trớn, là sự tự do tùy tiện, ai muốn làm gì thì làm. Trái lại, dân chủ phải là sự tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của mỗi cá nhân, tổ chức trong cộng đồng. Nó đòi hỏi việc thực hành dân chủ của người này phải được đặt trong mối quan hệ với dân chủ của các cá nhân, tổ chức khác và do đó phải được đặt trong những khuôn khổ, trật tự chung. Đó chính là kỷ luật, kỷ cương, đó chính là việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng này, điều cần thiết ở nước ta hiện nay là phải hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật, bảo đảm hành lang pháp lý cũng như điều kiện thể chế cho việc thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, giữ vững kỹ luật, kỷ cương xã hội. Đặc biệt, trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với nhiều thành tựu ưu việt có thể hỗ trợ con người giải quyết mọi vấn đề của đời sống xã hội, cần tận dụng những thành tựu to lớn này để giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế. Điều này được thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật nhằm minh bạch thông tin, tạo cơ hội để người dân biết, tham gia giám sát và thực hiện các hoạt động chung của Nhà nước, của các cá nhân, tổ chức có liên quan trực tiếp đến lợi ích của mỗi người dân
Minh bạch thông tin tạo cơ hội cho người dân biết để giám sát hoặc trực tiếp tham gia vào các hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong xã hội là một giải pháp quan trọng bảo đảm quyền làm chủ của người dân. Người dân khó có thể thực hiện quyền làm chủ của mình nếu như khả năng nắm bắt thông tin hạn hẹp, không nhận biết hoặc nhận biết sai lệch, nhận biết không kịp thời về những hoạt động của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Hơn thế nữa, trong một xã hội phát triển, tiếp cận thông tin đã trở thành một trong những quyền cơ bản của con người, được đông đảo cộng đồng quốc tế thừa nhận và bảo vệ, được thể chế thành luật pháp tại nhiều quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, việc minh bạch thông tin và nâng cao khả năng tiếp cận thông tin của người dân đã được Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm thực hiện. Phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng" được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng bổ sung và phát triển là kim chỉ nam cho việc thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng như hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Dân biết và quyền tiếp cận thông tin của người dân vừa được nhìn nhận như một giải pháp nhằm xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; vừa được nhìn nhận như là việc bảo đảm thực hiện các quyền cơ bản của con người, quyền cơ bản của công dân. Quyền này đã được thể chế hóa trong hệ thống luật pháp Việt Nam. Điều 25 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”(1). Không chỉ thừa nhận quyền tiếp cận thông tin của công dân, Hiến pháp năm 2013 cũng khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền này của mỗi công dân.
Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, Luật tiếp cận thông tin đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2018. Luật tiếp cận thông tin “quy định về việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân, nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân”(2). Đây là một bước tiến lớn trong nền lập pháp Việt Nam cũng như trong việc bảo đảm quyền công dân và quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay.
Bên cạnh Luật tiếp cận thông tin, quyền tiếp cận thông tin của công dân cũng được thể chế thông qua nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác như: Luật Báo chí được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017; Luật Khiếu nại, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 11 tháng 11 năm 2011, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2012; Luật Tố cáo, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12 tháng 6 năm 2018, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2019; Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 149/2018/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc; Nghị định số 09/2017/NĐ-CP ngày 09 tháng 02 năm 2017 của Chính phủ quy định chi tiết việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà nước…
Các văn bản quy phạm pháp luật trên đây đã góp phần hoàn thiện thể chế, tạo hành lang pháp lý cơ bản để bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân, từng bước thực hiện minh bạch hóa thông tin, tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, trải qua thực tiễn triển khai có thể thấy người dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thông tin, các thông tin được công khai chưa thực sự đầy đủ, còn chậm trễ. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền làm chủ của nhân dân mà còn tạo kẽ hở để những phần tử thoái hóa, biến chất che dấu những sai phạm, thừa cơ trục lợi; tạo cơ hội cho những kẻ gian manh lừa lọc nhân dân, nhất là trong lĩnh vực liên quan đến mua, bán, chuyển nhượng bất động sản, mua, bán, chuyển nhượng những tài sản bất hợp pháp…
Chính vì vậy, để hoàn thiện hơn nữa thể chế, bảo đảm cho người dân có thể thực hiện được đầy đủ quyền tiếp cận thông tin, qua đó thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của ḿnh, cần bổ sung các quy định sau:
Thứ nhất, khuyến khích và áp dụng các biện pháp bắt buộc khi cần thiết để các cơ quan chức năng ứng dụng những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ nhằm nâng cao khả năng tiếp cận thông tin của người dân. Cần quy định việc đăng tải trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước là hình thức bắt buộc, đồng thời có các biện pháp để các cơ quan nhà nước thực hiện được hình thức công khai thông tin này. Đối với những nơi mà người dân không có khả năng tiếp cận thông tin qua hình thức này thì thực hiện thêm các hình thức cung cấp thông tin khác phù hợp với người dân. Điều này phù hợp với xu thế chung của sự phát triển khoa học, công nghệ hiện nay, tạo điều kiện cho mọi chủ thể có thể tìm kiếm và tiếp cận thông tin một cách dễ dàng.
Thứ hai, thông tin cần công khai là vô cùng lớn và khó có thể liệt kê hết trong các văn bản quy phạm pháp luật. Do vậy, trong các văn bản quy phạm pháp luật có phạm vi điều chỉnh rộng không nên đưa ra nội dung nào cần công khai mà chỉ cần đưa ra nội dung nào không công khai hoặc hạn chế công khai. Khi đưa ra được những nội dung này thì những nội dung nào không nằm trong danh mục không được công khai hoặc hạn chế công khai thì bắt buộc phải thông tin rõ ràng, nêu công khai cho toàn dân biết. Trong hoạt động của mình, các cơ quan chức năng của nhà nước chỉ cần rà soát những nội dung nào cần đưa vào diện không công khai hoặc hạn chế công khai, còn lại tất cả các nội dung liên quan đến hoạt động của cơ quan Nhà nước sẽ phải công khai theo luật định. Như thế sẽ bao phủ hết nội dung cần công khai, tránh bỏ sót, hoặc tạo ra các quy định chồng chéo, gây khó khăn cho việc tiếp cận thông tin của người dân.
2. Hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật nhằm tiếp nhận và sử dụng hiệu quả các nguồn tin cung cấp, các ý kiến góp ý của nhân dân trong hoạt động quản lý của Nhà nước
Các nguồn thông tin, các ý kiến góp ý của nhân dân có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Với khả năng bao phủ rộng, trực tiếp tham gia và chứng kiến mọi hoạt động trong xã hội, người dân có khả năng cung cấp được nguồn thông tin rộng rãi, kịp thời, các ý kiến góp ý xác đáng giúp cho các cơ quan quản lý của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong xã hội nâng cao chất lượng hoạt động của mình. Đồng thời, việc tiếp nhận và sử dụng hiệu quả các nguồn thông tin, các ý kiến góp ý của nhân dân cũng là hình thức quan trọng nhằm đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật nhằm tiếp nhận và sử dụng hiệu quả các nguồn tin cung cấp, các ý kiến góp ý của nhân dân trong quản lý của Nhà nước hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng.
Hiện nay, cơ chế tiếp nhận, xử lý thông tin, ý kiến góp ý của nhân dân đã được thể chế trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, trong đó có các văn bản quan trọng như: Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018, Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Nghị định số 04/2015/NĐ-CP của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 149/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc… Ngoài ra trong Luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hình sự, Luật tố tụng hành chính… đều có các quy định chặt chẽ về việc tiếp nhận thông tin (tài liệu, chứng cứ, bằng chứng…) và xử lý thông tin trong quá trình tố tụng. Đặc biệt, các buổi tiếp xúc cử tri mang tính định kỳ, bắt buộc của các đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp cũng là một kênh thu thập thông tin quan trọng để các cơ quan của Nhà nước thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Mặc dù hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc tiếp nhận, xử lý thông tin, ý kiến góp ý của nhân dân trong hoạt động quản lý của Nhà nước là khá đầy đủ và bao quát tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tuy nhiên hiệu quả của việc tiếp nhận, xử lý thông tin, ý kiến góp ý của nhân dân vẫn chưa thực sự như kỳ vọng. Nhiều nguồn tin do người dân cung cấp chưa được các cơ quan Nhà nước xử lý kịp thời, thậm chí không quan tâm. Tình trạng “cử tri nơi đây đã kiến nghị, phản ánh nhiều lần, nhưng những vi phạm ở đây chưa được xử lý dứt điểm”(3) là thực tế buồn đang diễn ra ở nhiều nơi.
Nhiều nguồn thông tin có giá trị chưa được thừa nhận và sử dụng rộng rãi trong quản lý của Nhà nước, nhất là thông tin bằng hình ảnh do người dân cung cấp. Điển hình nhất là trong quản lý trật tự giao thông hiện nay. Việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này vẫn chủ yếu căn cứ vào việc phát hiện trực tiếp của những người thi hành công vụ, xử phạt ngay tại hiện trường. Việc sử dụng hình ảnh trong xử lý vi phạm an toàn giao thông vẫn chưa được nhân rộng. Các hình ảnh, chứng cứ do người dân cung cấp về các hành vi vi phạm an toàn giao thông vẫn chưa được sử dụng triệt để. Điều này không chỉ làm hạn chế vai trò của người dân trong việc đảm bảo giữ gìn trật tự an toàn giao thông mà còn tạo ra kẽ hở, cơ hội để một bộ phận những người thực thi công vụ thoái hóa biến chất trục lợi trong quá trình xử lý trực tiếp những người vi phạm.
Bên cạnh những hạn chế trong việc tiếp nhận, xử lý thông tin từ phía người dân, việc thực hiện các chính sách khuyến khích để người dân tích cực hơn trong phát hiện và cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý nhà nước cũng chưa được quan tâm đúng mức. Việc khen thưởng, động viên người dân khi cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý nhà nước vẫn còn khiêm tốn, nhất là những thông tin về các hành vi tiêu cực của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Thực tế hiện nay, các hành vi tiêu cực của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước xuất hiện ở nhiều nơi, thông tin do người dân cung cấp về các hành vi tiêu cực này cũng rất nhiều, tuy nhiên lại có rất ít người được động viên, khen thưởng khi cung cấp những thông tin có giá trị cho các cơ quan chức năng của Nhà nước. Việc sử dụng kém hiệu quả các nguồn tin cung cấp từ người dân, chưa quan tâm đúng mức đến việc động viên, khích lệ người dân khi cung cấp các thông tin có giá trị không chỉ làm hạn chế quyền làm chủ của người dân mà còn làm giảm hiệu quả quản lý của các cơ quan chức năng của Nhà nước khi thực thi công vụ.
Do vậy, để hoàn thiện thể chế nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ của người dân, cần tập trung hoàn thiện thể chế để tiếp nhận, xử lý và sử dụng hiệu quả các nguồn tin, các ý kiến góp ý của nhân dân trong hoạt động quản lý của Nhà nước. Điều này đòi hỏi phải thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trong xây dựng văn bản thể chế, đặc biệt là đối với các văn bản qui định về việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của các cá nhân, tổ chức cần thừa nhận và xử lý tất cả các thông tin chính xác do người dân cung cấp. Các thông tin này dù người cung cấp có công khai hay không công khai danh tính thì vẫn phải được coi như những bằng chứng, chứng cứ, tài liệu khách quan và các cơ quan thực thi công vụ bắt buộc phải tiếp nhận và xử lý. Không bỏ qua bất kỳ những thông tin chính xác nào từ phía người dân cung cấp, đồng thời quy định rõ ràng việc áp dụng công nghệ trong việc thu thập và xử lý thông tin từ phía người dân nhằm tạo điều kiện tối đa cho người dân cung cấp thông tin. Thực hiện các chính sách khen thưởng thích đáng đối với những thông tin có giá trị do người dân cung cấp, đồng thời xử lý nghiêm minh các hành vi lơ là, che dấu thông tin gây ảnh hưởng đến lợi ích chung của cộng đồng và xã hội.
Thứ hai, trong thực thi công vụ trên một số lĩnh vực, nhất là trong giữ gìn trật tự an toàn giao thông, phải coi việc “phạt nguội” (không xử phạt trực tiếp tại hiện trường mà sau thời gian nhất định thông qua các chứng cứ từ nhiều nguồn khác nhau) phải là cách thức xử phạt chính, bỏ dần việc xử phạt trực tiếp tại hiện trường. Điều này một mặt sẽ tận dụng được rất nhiều nguồn thông tin từ người dân về các hành vi vi phạm giao thông, đồng thời giảm thời gian làm việc trực tiếp của người thực thi công vụ tại hiện trường, qua đó giảm ùn tắc giao thông, giảm tiêu cực của những người thực thi công vụ.
3. Tăng cường năng lực nhằm phát hiện và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm chuẩn mực đạo đức và các lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Quyền làm chủ của nhân dân sẽ không được bảo đảm nếu tình trạng vi phạm pháp luật vẫn diễn ra, những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp và những lợi ích chính đáng của nhân dân bị vi phạm. Do vậy, phát huy quyền làm chủ của nhân dân không thể tách rời với việc ngăn ngừa, phát hiện và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm chuẩn mực đạo đức và các lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Để làm được điều này, cần hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật theo hướng tăng nặng các chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Thực tế hiện nay cho thấy, đa số các hành vi vi phạm pháp luật không phải do sự kém hiểu biết của người dân mà xuất phát từ sự coi thường, bất chấp các quy định của pháp luật, các quy định chung của cộng đồng. Nhiều cá nhân sẵn sàng đánh đổi theo kiểu “được ăn cả, ngã về không”, “sẵn sàng làm liều”, “hy sinh đời bố, củng cố đời con”, “bố đi tù một thời gian để con sướng cả đời”… Điều này một phần do các chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe, chưa làm cho các cá nhân đó “đủ sợ” để không vi phạm pháp luật. Do vậy, tăng nặng các chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật là yêu cầu cần có để đảm bảo cho người dân thực thi đúng với các quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, cần nâng cao trách nhiệm và xử lý nghiêm minh những người đứng đầu và các cá nhân liên quan trong khi để xảy ra các hành vi vi phạm pháp luật. Đồng thời tăng cường năng lực kiểm tra, giám sát các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kiểm tra, giám sát. Xử lý nghiêm minh những cá nhân, tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát nhưng không phát hiện được các hành vi vi phạm pháp luật, để tình trạng này diễn ra thời gian dài, gây hậu quả xấu cho xã hội./.
___________________________________________________________________
(1) Quốc hội nước Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tr 6.
(2) Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII (2016), Luật tiếp cận thông tin, tr.1.
Bài liên quan
- Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
- Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
- Tư duy hệ thống về cải cách hành chính trong bối cảnh chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
- Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Nhân sinh quan Phật giáo với việc xây dựng lối sống cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
5
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
6
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Nâng cao chất lượng công tác giáo dục phẩm chất chính trị trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho sinh viên chuyên ngành Triết học
Trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch không ngừng tăng cường thực hiện những âm mưu, thủ đoạn nhằm chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, gây mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Do đó, việc giáo dục và rèn luyện phẩm chất chính trị cho thế hệ trẻ trở thành nhiệm vụ cấp thiết. Đặc biệt, với sinh viên chuyên ngành Triết học tại các trường đại học trên địa bàn Hà Nội- những người được học tập, nghiên cứu và được đào tạo chuyên sâu về lý luận sẽ là đội ngũ trực tiếp tham gia và có nhiều đóng góp trong công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy, yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục phẩm chất chính trị cho sinh viên chuyên ngành Triết học càng trở nên có ý nghĩa chiến lược. Bài viết tập trung phân tích thực trạng, chỉ ra những hạn chế, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác giáo dục phẩm chất chính trị, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.
Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
Công tác tư tưởng, lý luận luôn là bộ phận cốt lõi trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, yêu cầu đặt ra là phải đổi mới toàn diện công tác tư tưởng, lý luận để vừa giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, vừa thích ứng linh hoạt với sự thay đổi sâu rộng trong xã hội, khoa học – công nghệ và truyền thông.
Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Tỉnh Lạng Sơn, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, giữ vị trí chiến lược trong công tác bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số. Trong thời gian qua, tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Lạng Sơn đã có những đóng góp tích cực vào quá trình quản lý nhà nước về văn hóa DTTS thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phong trào thanh niên và tham gia giám sát chính sách. Những kết quả đạt được bước đầu thể hiện vai trò nhất định của Đoàn trong việc kết nối giữa chính quyền và thanh niên DTTS. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy nhiều hạn chế như thiếu cơ chế phối hợp, chưa được thể chế hóa vai trò, năng lực cán bộ còn bất cập và thiếu nguồn lực bảo đảm hoạt động bền vững. Trên cơ sở phân tích thực trạng, bài viết tập trung làm rõ vai trò của tổ chức Đoàn trong quản lý nhà nước về văn hóa DTTS tại Lạng Sơn, đồng thời đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy hiệu quả hơn nữa vai trò này trong bối cảnh chuyển đổi mô hình quản trị hiện nay, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững văn hóa vùng dân tộc.
Tư duy hệ thống về cải cách hành chính trong bối cảnh chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam
Tư duy hệ thống về cải cách hành chính trong bối cảnh chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam
Từ ngày 1/7/2025, nước ta chính thức vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp ở tất cả 34 tỉnh, thành phố. Sau sắp xếp lại, việc vận hành mô hình mới, cắt giảm cấp trung gian đòi hỏi phải thay đổi tư duy quản trị, áp dụng tư duy hệ thống trong quản lý, điều hành, cải cách hành chính để mô hình chính quyền địa phương hai cấp thực sự mang lại hiệu quả.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứTư và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức diễn ra mạnh mẽ, việc xây dựng lực lượng sản xuất mới trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam. Trong đó, nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò then chốt, quyết định khả năng tiếp thu, ứng dụng và sáng tạo khoa học – công nghệ, thúc đẩy năng suất lao động, đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Bài viết tập trung làm rõ vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay - nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở nước ta.
Bình luận