Một số nguyên tắc nghiên cứu, giảng dạy và học tập tác phẩm kinh điển Mác - xít
Để việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đạt được kết quả như mong muốn đòi hỏi phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, phải quán triệt và vận dụng sáng tạo phương pháp luận khoa học - chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử - vào việc nghiên cứu, khai thác những giá trị tư tưởng - lý luận, phương pháp luận trong các tác phẩm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng.
Phương pháp luận là một hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn. Phương pháp luận Mác - Lênin trang bị cho chúng ta thế giới quan khoa học và phương pháp luận đúng đắn, những quan điểm, nguyên tắc, cách thức chung đúng đắn để nghiên cứu bản thân học thuyết Mác - Lênin, học thuyết được xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng như những hoạt động thực tiễn nhằm nhận thức và cải tạo thực tiễn. Nói cách khác, học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được xây dựng trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử (thế giới quan và phương pháp luận khoa học), nên việc nghiên cứu, khai thác những giá trị của nó phải xuất phát từ chính thế giới quan và phương pháp luận đã xây dựng nên nó. Sự thống nhất giữa thế giới quan khoa học và phương pháp luận đúng đắn, theo Lênin, đã làm cho triết học của Mác là một “chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị”, đồng thời là “công cụ nhận thức vĩ đại”. Hơn thế nữa, với thế giới quan và phương pháp luận khoa học, khi nghiên cứu các tác phẩm kinh điển sẽ mở ra khả năng phát triển những nguyên lý, lý luận được xây dựng bởi các nhà kinh điển, cho phù hợp với điều kiện mới. A. Anhxtanh đã nhận xét “các khái quát hoá triết học cần phải dựa trên các kết quả khoa học. Tuy nhiên, một khi đã xuất hiện và được truyền bá rộng rãi, chúng thường ảnh hưởng đến sự phát triển của các tư tưởng khoa học khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều phương pháp phát triển có thể có”(1). Cần thiết phải nhắc lại một cách khái quát thực chất của phương pháp biện chứng mácxít và của chủ nghĩa duy vật mácxít để quán triệt trong nghiên cứu, khai thác những giá trị tư tưởng của những tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực chất cuả phương pháp biện chứng mácxít được thể hiện ở bốn đặc trưng cơ bản:
a) Các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có mối liên hệ và tác động qua lại với nhau
b) Các sự vật, hiện tượng luôn vận động và chuyển hoá không ngừng
c) Sự phát triển không phải là sự tăng trưởng giản đơn mà được diễn ra từ sự thay đổi về lượng đến thay đổi về chất
d) Đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động phát triển của sự vật
Thực chất của chủ nghĩa duy vật mácxít được thể hiện ở ba đặc trưng cơ bản:
a) Thế giới thống nhất ở tính vật chất và luôn vận động biến đổi không ngừng
b) Vật chất là cái có trước, ý thức, tư duy là cái có sau
c) Con người có thể nhận thức được thế giới và các qui luật của nó. Đây chính là nội dung căn cốt của chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác - ănghen và sau đó là Lênin xây dựng. Vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào nghiên cứu đời sống xã hội mà trực tiếp là chủ nghĩa tư bản, các nhà kinh điển đã phát hiện ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, mà nội dung cơ bản của nó là: sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại xã hội và phát triển xã hội, rằng cùng với lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là những yếu tố hợp thành không thể thiếu được của hình thái kinh tế - xã hội và mối quan hệ biện chứng trong quá trình vận động của các yếu tố đó là những qui luật của sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội với tư cách là quá trình lịch sử tự nhiên. ăngghen viết: “Trong mỗi thời đại lịch sử, phương thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do phương thức đó quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử của sự phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ có xuất phát từ đó mới cắt nghĩa được lịch sử đó”(2).
Thứ hai, cần vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích và tổng hợp; qui nạp và diễn dịch; lịch sử và lô gíc; từ trừu tượng đến cụ thể.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin rất coi trọng vai trò của phương pháp, nhất là trong hoạt động cách mạng. Theo các ông, vấn đề không phải chỉ là chân lý mà còn là con đường (phương pháp) đến chân lý và chính phương pháp cũng phải có tính chân lý.
Theo tiếng Hy Lạp, phương pháp “methodos” có nghĩa là con đường, công cụ nhận thức. Còn có những định nghĩa và quan niệm khác nhau về phương pháp, song, một cách chung nhất, phổ quát nhất có thể xem phương pháp là hệ thống những nguyên tắc được đúc rút từ những tri thức về các qui luật khách quan để điều chỉnh nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu nhất định.
Có rất nhiều phương pháp khác nhau tuỳ theo cách tiếp cận, mục đích nghiên cứu và phân loại. Tuy nhiên, trong nghiên cứu và khai thác những giá trị của các tác phẩm kinh điển cần sử dụng một số phương pháp cơ bản sau: phương pháp phân tích và tổng hợp; qui nạp và diễn dịch; lịch sử và lô gíc và phương pháp từ trừu tượng đến cụ thể... Có thể xem đây là những phương pháp quan trọng nhất trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập những tác phẩm kinh điển.
Phương pháp phân tích và tổng hợp xuất phát từ cơ sở khách quan của chính cấu tạo của sự vật và trong tính qui luật của bản thân sự vật, hiện tượng cũng như trong hoạt động thực tiễn của con người. Hiện thực khách quan luôn tồn tại cái toàn bộ và cái bộ phận, yếu tố và hệ thống, phân tán và kết hợp. Trong hoạt động thực tiễn của con người cũng bao gồm hai quá trình: quá trình chia tách các đối tượng và quá trình hợp nhất các đối tượng bị chia tách để thành cái thống nhất mới. Những quá trình đó được thể hiện trong tư duy bởi những thao tác tư duy, phương pháp tư duy. Phương pháp phân tích tổng hợp của tư duy chỉ là sự phản ánh những quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp nhận thức khác nhau nhưng lại thống nhất biện chứng với nhau. Không phân tích thì không nhận thức cái bộ phận, còn không tổng hợp thì không thể nhận thức cái toàn bộ như một chỉnh thể. Phân tích đi liền với tổng hợp, chuẩn bị cho tổng hợp, được bổ sung bởi tổng hợp và tổng hợp giúp cho phân tích đi sâu vào cái bản chất của sự vật, hiện tượng. Ph.ănghen đã khẳng định: “Tư duy bao hàm ở chỗ đem những đối tượng của nhận thức ra phân thành những yếu tố cũng như đem những yếu tố có quan hệ với nhau hợp thành một thể thống nhất nào đó. Không có phân tích thì không có tổng hợp”(3). Với ý nghĩa của phương pháp này, trong quá trình nghiên cứu tác phẩm kinh điển đòi hỏi phải thực hiện quá trình chia tách tác phẩm thành những đoạn, những nội dung có tính độc lập tương đối để phân tích giá trị của chúng, và sau đó phải tổng hợp lại để nhận thức những giá trị trong cái toàn vẹn. Chẳng hạn, khi nghiên cứu phân tích giá trị của bộ Tư bản, tác phẩm chủ yếu của Mác, mà Lênin đã từng đánh giá là tác phẩm về kinh tế chính trị học vĩ đại nhất trong thế kỷ chúng ta, không dễ gì chúng ta có thể nhận thức ngay được những tư tưởng vĩ đại trong tác phẩm vĩ đại đó. Để hiểu biết, chúng ta phải nghiên cứu từng quyển một. Quyển I, C. Mác tập trung phân tích quá trình sản xuất của tư bản; Quyển II, C. Mác tập trung phân tích quá trình lưu thông tư bản và Quyển III, C. Mác phân tích toàn bộ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chỉ có trên cơ sở phân tích cả ba quyển, sau đó tổng hợp lại mới hiểu được tư tưởng thiên tài của C. Mác về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, hiểu được sự luận chứng về sự diệt vong không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội. Còn khi phân tích nội dung tư tưởng của một tác phẩm cụ thể, chẳng hạn như tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, chí ít chúng ta phân chia tác phẩm thành bốn phần theo bốn chương (trong mỗi chương lại tách thành những đoạn) để phân tích (nghiên cứu theo chiều ngang); cũng như tách những tư tưởng riêng ra để nghiên cứu theo chiều dọc, chẳng hạn:
- Chính trị, đấu tranh chính trị, cách mạng chính trị, quyền lực chính trị
- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
- Đảng chính trị
- Vấn đề nhà nước và nhà nước của giai cấp vô sản
Sau khi phân tích cả theo chiều ngang và theo chiều dọc, tổng hợp lại để tìm tư tưởng chủ đạo và những nội dung tư tưởng của toàn tác phẩm theo mục đích đã đề ra.
Phương pháp qui nạp và diễn dịch là phương pháp kết hợp biện chứng giữa phương pháp qui nạp - phương pháp đi từ tri thức về cái riêng đến tri thức về cái chung, từ tri thức ít chung đến tri thức chung hơn - với phương pháp diễn dịch - phương pháp đi từ tri thức chung đến tri thức về cái riêng, từ tri thức chung đến tri thức ít chung hơn. Qui nạp giúp cho việc khái quát kinh nghiệm về những cái riêng để có được nhận thức về cái chung. Qui nạp góp phần khám phá ra qui luật, tính qui luật, đề ra các giả thuyết. Diễn dịch là sự vận dụng nguyên lý chung để xem xét cái riêng, ra kết luận riêng từ cái chung đã biết. Tất nhiên, để rút ra kết luận đúng bằng con đường diễn dịch nhất thiết phải xuất phát từ những tiền đề đúng và phải tuân theo các qui tắc lôgic, phải có quan điểm lịch sử - cụ thể khi vận dụng cái chung vào cái riêng. Quy nạp và diễn dịch là hai phương pháp nhận thức khác nhau nhưng lại thống nhất biện chứng như tổng hợp và phân tích. Quy nạp giúp ta nhận thức được cái chung, còn diễn dịch hướng ta đi từ cái chung đến nhận thức, hiểu cái riêng. Quá trình nhận thức là quá trình đi từ cái riêng đến cái chung, từ cái chung đến cái riêng. Bởi vậy, để nhận thức đúng bản chất sự vật, hiện tượng đòi hỏi phải vận dụng tổng hợp cả hai phương pháp qui nạp và diễn dịch. Trong nghiên cứu, khai thác những giá trị của các tác phẩm kinh điển, chẳng hạn tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, áp dụng phương pháp qui nạp, đòi hỏi người nghiên cứu phải hiểu được nguyên tắc, phương pháp viết tuyên ngôn, phải hiểu hoàn cảnh Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập”, nắm được lý do viết và tư tưởng chủ đạo của Tuyên ngôn độc lập. Trên cơ sở đó, bằng phương pháp diễn dịch, chúng ta đi sâu phân tích nguyên tắc viết Tuyên ngôn độc lập và nội dung những tư tưởng chủ yếu Tuyên ngôn độc lập, chẳng hạn những tư tưởng chính trị của Tuyên ngôn độc lập: Luận chứng về lẽ phải thông thường, cơ sở pháp lý của Tuyên ngôn độc lập: thống nhất 3 quyền, nhân quyền, dân quyền và chủ quyền quốc gia, trong đó tự do cá nhân phải phục tùng quyền sống trong độc lập và thịnh vượng; tư tưởng dân chủ, tư tưởng nhân văn; tư tưởng “không có gì quí hơn độc lập tự do”...
Phương pháp lịch sử và lôgíc
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, lịch sử là tính thứ nhất, còn lôgíc của tư duy là tính thứ hai. Thống nhất giữa lịch sử và lôgíc là một trong những nguyên tắc của nhận thức. Lôgíc của tư duy có thể đạt tới bản chất của lịch sử, vạch ra qui luật vận động, phát triển của lịch sử tước bỏ những cái gì bề ngoài, ngẫu nhiên, không bản chất của lịch sử, tái hiện cái “lôgíc khách quan” của lịch sử trong lôgíc vận động của những khái niệm... ăngghen cho rằng, lôgíc chẳng qua là lịch sử, chỉ có khác là đã thoát khỏi hình thái lịch sử và khỏi những hiện tượng ngẫu nhiên pha trộn: “Như vậy, phương pháp nghiên cứu lôgic là phương pháp thích hợp nhất. Nhưng về thực chất, phương pháp này chẳng qua cũng là phương pháp lịch sử, có điều là đã thoát khỏi những hiện tượng ngẫu nhiên gây trở ngại mà thôi. Lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư duy, cũng phải bắt đầu từ đó, và sự vận động tiếp tục của nó chẳng qua là sự phản ánh lịch sử dưới một hình thái trừu tượng và nhất quán về lý luận; nó là sự phản ánh đã được uốn nắn theo những qui luật mà bản thân quá trình lịch sử hiện thực đã cung cấp”(4).
Phương pháp lịch sử là sự phản ánh trong tư duy quá trình lịch sử - cụ thể của sự vật, hiện tượng với những chi tiết và sự phong phú, đa dạng của nó trong tính toàn thể và trong tiến trình lịch sử. Là phương pháp vô cùng quan trọng khi nghiên cứu hoàn cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm cũng như lịch sử hình thành phát triển của các nguyên lý lý luận trong tác phẩm. Tuy nhiên, không phải bao giờ sử dụng phương pháp lịch sử cũng phát huy tác dụng, bởi lịch sử, theo Ph.Ăngghen, thường phát triển qua những bước nhảy vọt và những bước khúc khuỷu quanh co, và bất cứ lúc nào cũng phải nhất định đi theo nó, thì không những sẽ phải nêu lên nhiều tài liệu không quan trọng, mà thường thường còn phải ngắt đoạn tiến trình tư tưởng nữa.
Phương pháp lôgíc là phương pháp dựng lại cái lôgíc khách quan của sự vật, hiện tượng, giúp nhận thức đạt tới mặt bản chất, tính qui luật của sự vật, hiện tượng dưới hình thức lý luận trừu tượng và khái quát. Nói cách khác, như ăngghen viết “Như vậy, phương pháp nghiên cứu lôgíc là phương pháp thích hợp duy nhất. Nhưng về thực chất, phương pháp này chẳng qua cũng là phương pháp lịch sử, có điều là đã thoát khỏi hình thái lịch sử và khỏi hiện tượng ngẫu nhiên gây trở ngại mà thôi. Lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư duy cũng phải bắt đầu từ đó, và sự vận động tiếp tục của nó chẳng qua chỉ là sự phản ánh quá trình lịch sử dưới một hình thái trừu tượng nhất quán về lý luận; nó là sự phản ánh đã được uốn nắn, nhưng uốn nắn theo những qui luật mà bản thân quá trình lịch sử đã cung cấp, hơn nữa mỗi một nhân tố đều có thể được xem xét ở cái điểm phát triển mà ở đó quá trình đạt tới chỗ hoàn toàn chín muồi, đạt tới cái hình thức cổ điển của nó”(5). Phương pháp lôgíc đã kết hợp trong mình hai yếu tố của sự nghiên cứu: Nghiên cứu cấu trúc và nghiên cứu lịch sử trong sự thống nhất hữu cơ. Trong bộ Tư bản, C.Mác đã chủ yếu dùng phương pháp lôgíc để nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Với sự phân tích lôgíc, bằng hệ thống khái niệm, phạm trù được xếp sắp và phân tích một cách lôgíc, C.Mác đã vạch ra được qui luật phát sinh, phát triển và diệt vong không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản. Chính sự phân tích hợp lôgíc này, theo Lênin, đã đưa lại “lịch sử của chủ nghĩa tư bản và phân tích những khái niệm tóm tắt lịch sử này”(6). Hai phương pháp lịch sử và lôgíc là hai phương pháp khác nhau, song gắn bó, thống nhất biện chứng với nhau. Quán triệt sự thống nhất lôgíc và lịch sử là một nguyên tắc của phương pháp nhận thức và nghiên cứu. Để nhận thức đúng đắn bản chất và qui luật của sự vật, hiện tượng, nhất thiết phải hiểu được lịch sử phát sinh. Phát triển của nó; ngược lại, chỉ có trên cơ sở nhận thức thấu đáo bản chất và qui luật của sự vật, hiện tượng mới nhận thức được lịch sử của nó đúng đắn và sâu sắc.
Trong quá trình nghiên cứu một tác phẩm cụ thể, chẳng hạn như tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, để hiểu được sự phân tích có tính phê phán dự án cương lĩnh vô nguyên tắc của Đảng xã hội- dân chủ Đức, thảo ra cho đại hội Gôta và để nhận thức đúng bản chất những luận điểm mới của Mác về thời kỳ quá độ, về chuyên chính vô sản, về hai giai đoạn của hình thái kinh tế - xã hội công sản chủ nghĩa... cần hiểu chắc lịch sử hình thành và phát triển và sự phân liệt của hai tổ chức đảng trong phong trào công nhân Đức: Đảng xã hội - dân chủ Đức và đảng của phái Látxan (Hội công nhân toàn Đức); đồng thời phải hiểu được hoàn cảnh lịch sử những năm 70 của thế kỷ XIX phong trào công nhân đang bị phân liệt. Trên cơ sở nắm được bối cảnh lịch sử, lý do C.Mác viết tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta và sự phân tích, sự phê phán của Mác đối với những luận điểm tiểu tư sản của phái Látxan ảnh hưởng đến phong trào công nhân Đức, chúng ta mới có thể hiểu được sự phát triển sáng tạo về lý luận của C.Mác. Do Cương lĩnh Gôta đưa ra khái niệm “nhà nước tự do”, và coi nhà nước là “một thực tại độc lập” có những “cơ sở tinh thần, đạo đức và tự do” riêng của nó, từ đó đã dẫn đến nhận thức sai lầm của giai cấp công nhân Đức khi xem Nhà nước Đức như là có tính nhân dân, Nhà nước đó đại diện cho lợi ích toàn xã hội có khả năng cải tạo xã hội hiện thời thành xã hội xã hội chủ nghĩa. Với phương pháp phân tích lôgíc, C.Mác chỉ ra rằng: nhà nước nào cũng hình thành trên một cơ sở nhất định và mang bản chất giai cấp của chế độ xã hội hiện tồn. Có nhiều kiểu nhà nước tư sản nhưng đều “có đặc điểm chung là được xây dựng trên “mảnh đất” của xã hội tư sản, chỉ có điều là phương thức tư bản chủ nghĩa ấy phát triển ở trình độ nào? Vì vậy, những nhà nước ấy cũng đều có chung một số tính chất căn bản và đều có chung một bản chất tư sản. Điều đó cũng có nghĩa: không thể có nhà nước phi giai cấp, không thể có cái gọi là “Nhà nước nhân dân tự do” trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Sai lầm tiếp theo của Cương lĩnh là họ không nói gì đến trong xã hội tiếp theo sau xã hội tư sản, tức xã hội XHCN, xã hội ấy cần tới kiểu nhà nước như thế nào?
C.Mác cho rằng không có nhà nước tự do độc lập với cơ sở xã hội cũng không có nhà nước chung chung. Nếu xã hội tư sản bị tiêu diệt, xã hội mới ra đời thì phải có một kiểu nhà nước mới, đó chính là nhà nước Chuyên chính vô sản: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng xã hội từ nó sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy, là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Thế mà bản Cương lĩnh không đả động gì đến vấn đề chuyên chính vô sản, cũng chẳng nói gì đến chế độ nhà nước tương lai trong xã hội cộng sản chủ nghĩa”.
Từ trừu tượng đến cụ thể
Cơ sở khách quan của phương pháp này xuất từ sự tồn tại khách quan dưới dạng cái cụ thể của các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan. Song cái cụ thể khách quan lại được phản ánh vào nhận thức dưới hai hình thức: cái cụ thể cảm tính và cái cụ thể trong tư duy, trong đó, cái cụ thể cảm tính là điểm bắt đầu của nhận thức, cái cụ thể trong trong tư duy là kết quả của tư duy lý luận, kết quả của sự nghiên cứu khoa học phản ánh cái cụ thể khách quan bằng hệ thống những khái niệm, phạm trù, qui luật. Theo C. Mác, “cái cụ thể sở dĩ là cụ thể vì nó là sự tổng hợp của nhiều thuộc tính qui định, do đó, nó là sự thống nhất của cái đa dạng. Cho nên trong tư duy, nó biểu hiện ra là một quá trình tổng hợp, là kết quả chứ không phải là điểm xuất phát, mặc dù nó là điểm xuất phát thực sự và do đó cũng là điểm xuất phát của trực quan và của biểu tượng”(7).
Còn cái trừu tượng là kết quả của sự trừu tượng hoá một mặt, một mối liên hệ nào đó trong tổng thể phong phú của sự vật. Bởi vậy, cái trừu tượng là một bộ phận của cái cụ thể, biểu hiện một mặt nào đó của của cái cụ thể, là bậc thang của sự xem xét cái cụ thể. Từ nhiều cái trừu tượng trong tư duy hợp thành cái cụ thể trong tư duy.
Nhận thức là sự thống nhất của hai quá trình đối lập: từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ thể. Quá trình từ cụ thể đến trừu tượng tạo tiền đề cho quá trình từ trừu tượng đến cụ thể. C. Mác xem đi từ trừu tượng đến cụ thể là phương pháp nhận thức khoa học “phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể chỉ là cái phương pháp nhờ đó mà tư duy quán triệt được cái cụ thể và tái tạo ra nó với tư cách là cái cụ thể trong tư duy”(8).
Phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể được C.Mác xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa duy vật và được vận dụng tài tình vào bộ Tư bản để nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Bắt đầu từ sự phân tích phạm trù “hàng hoá”, phạm trù cơ bản và giản đơn nhất của quá trình sản xuất tư bản, cái “tế bào kinh tế” của xã hội tư bản, như là cái trừu tượng xuất phát để từ đó Mác tiến đến phân tích các phạm trù cụ thể hơn như tiền tệ, tư bản, giá trị thặng dư, lợi nhuận, địa tức, địa tô... Sự phân tích các phạm trù cơ bản, cái cụ thể trong tư duy, cùng với quá trình tổng hợp đã làm phong phú sự nghiên cứu các tính qui định của đối tượng, dẫn đến cụ thể hoá đối tượng. Nhờ đó C.Mác đã tái hiện được xã hội tư bản chủ nghĩa như một chỉnh thể cụ thể trong sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng trên cơ sở vạch ra qui luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Trong mối liên hệ với việc phân tích một tác phẩm cụ thể khi sử dụng phương pháp từ trừu tượng đến cụ thể, đòi hỏi, chúng ta trên cơ sở nhận thức đúng hoàn cảnh, lý do ra đời, chúng ta cần bắt đầu từ tư tưởng chủ đạo của tác phẩm, từ đó đi sâu phân tích những tư tưởng cơ bản của tác phẩm để hợp thành tư tưởng chủ đạo. Chẳng hạn khi nghiên cứu tác phẩm “ Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước” của Ph. ăng ghen, sau khi nắm khái quát cơ bản hoàn cảnh, lý do viết tác phẩm, vào thập kỷ 70 của thế kỷ XIX, L.Moocgan đã công bố nhiều vấn đề về lịch sử trước khi loài người bước vào thời đại văn minh - chế độ chiếm hữu nô lệ; Ăngghen đã viết tác phẩm để khẳng định sự đúng đắn của C.Mác về những quan điểm duy vật lịch sử trong tác phẩm “Tóm tắt tác phẩm của L.Moocgan”, chúng ta nắm chắc tư tưởng chủ đạo của tác phẩm: Ph. ăngghen đã phân tích một cách khoa học lịch sử loài người ở những giai đoạn phát triển sớm nhất của nó; làm sáng tỏ cơ sở kinh tế của quá trình tan rã chế độ cộng sản nguyên thuỷ và hình thành xã hội có giai cấp dựa trên chế độ tư hữu; giải thích đặc điểm của sự phát triển những quan hệ gia đình, vạch ra nguồn gốc bản chất và sự tiêu vong của nhà nước. Từ việc nắm chắc tư tưởng chủ đạo làm xuất phát, chúng ta đi tới sự phân tích những tư tưởng cơ bản của tác phẩm, chẳng hạn tư tưởng chính trị:
- Quan điểm lý luận về gia đình, hôn nhân, tình yêu nam nữ với sự phát triển xã hội.
- Nguồn gốc ra đời và tiêu vong của chế độ tư hữu và giai cấp.
- Nguồn gốc, bản chất và sự tiêu vong của nhà nước.
- Cách mạng XHCN với việc giải phóng con người, điều kiện để nhà nước tiêu vong.
Thứ ba, nghiên cứu, giảng dạy và học tập tác phẩm kinh điển phải trung thành với bản gốc của tác phẩm được dịch ra tiếng Việt do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát hành mới nhất.
Hiện nay, tài liệu dịch thuật các tác phẩm kinh điển có rất nhiều và do nhiều nhà xuất bản phát hành. Khi dịch thuật, các dịch giả do trình độ nhận thức, trình độ chuyên môn nên đã có những bản dịch không hoàn toàn chuẩn xác như nhau, không có hội đồng thẩm định, từ đó dẫn đến sự hiểu không giống nhau. Bởi vậy, khi nghiên cứu, giảng dạy và học tập cần phải sử dụng tài liệu dịch thuật do Nhà xuất bản CTQG là tài liệu chính thống. Hơn nữa cùng một loại tác phẩm cũng có những bản dịch thuật ở những năm khác nhau, bởi vậy, phải sử dụng xuất bản phẩm mới nhất. Và, nếu cùng một loại có nhiều hình thức xuất bản phẩm: toàn tập, tuyển tập, chuyên khảo, phải sử dụng xuất bản phẩm ở dạng toàn tập, chẳng hạn C. Mác - Ph. ănghen toàn tập, Lênin toàn tập, Hồ Chí Minh toàn tập.
Thứ tư, phải cân đối thời gian giới thiệu của giảng viên với thời gian tự nghiên cứu, tự học của học viên một cách hợp lý.
Thông thường theo kinh nghiệm, tỷ lệ giữa thời gian giới thiệu (thời gian lên lớp) với thời gian tự nghiên cứu là 1/5, thậm chí có tác phẩm khó tỷ lệ là 1/10, chẳng hạn tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”. Theo Qui định chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo qui định thời lượng học các môn lý luận là 1 lý thuyết 1 thực hành (thảo luận, xêmina...), nhưng học tác phẩm kinh điển thì thời gian dành cho tự học phải lớn gấp 5, gấp 10 lần, ngoài ra người học phải đầu tư thêm. Một thực tế, học viên học Ngoại ngữ hay Tin học, để làm chủ được tri thức, hầu hết người học phải đầu tư thêm (học thêm).
Thứ năm, nghiên cứu, giảng dạy và học tập tác phẩm kinh điển cần quán triệt đầy đủ phương pháp dạy - học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
Như chúng ta đã biết, thực chất của phương pháp dạy - học mới lấy người học làm trung tâm, nhằm tăng cường tính chủ động, tích cực, sáng tạo của người học; là phương pháp mà trong đó thầy vừa dạy, vừa học, trò vừa học, vừa dạy; đây là phương pháp khơi dậy những tiềm năng vốn có của cả thày và trò nhằm chinh phục và hình thành những tri thức mới cả về kiến thức, kỹ năng và tình cảm. Phương pháp dạy - học tích cực là phương pháp mà thầy chỉ đóng vai là người tổ chức, định hướng tạo điều kiện, động viên và kiểm tra quá trình người học tự tìm kiếm, chinh phục những đỉnh cao của tri thức. Chính vì vậy, khi giới thiệu tác phẩm (dạy - học tác phẩm) nhất thiết phải kết hợp các phương pháp dạy - học tích cực, trong đó phương pháp thuyết trình chỉ là thứ yếu, các phương pháp đóng vai, thảo luận nhóm, phương pháp tình huống, phải là các phương pháp chủ đạo. Cần khắc phục phương pháp độc thoại, “Thầy nói trò ghi, khi thì trò chép lại điều thầy nói”. Và, cũng cần khắc phục phương pháp dạy hai vòng như trước đây, thầy giới thiệu, sau đó trò nghiên cứu, tiếp sau thầy giảng lại. Dạy – học kiểu này trò vẫn thụ động và chờ thầy hệ thống rồi ghi chép để ôn thi.
Thứ sáu, nghiên cứu, giảng dạy, học tập tác phẩm cần quán triệt nguyên tắc: lý luận liên hệ với thực tiễn.
Hồ Chí Minh đã khẳng định “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”(9). Trong công tác nghiên cứu, những tác phẩm kinh điển ngoài việc xem tác phẩm được xây dựng trong điều kiện lịch sử cụ thể, yêu cầu còn phải đặt những nguyên lý lý luận trong chỉnh thể của quá trình hình thành, phát triển. Nghĩa là phải gắn nguyên lý lý luận trong mối quan hệ với thực tiễn phát triển, và đặc biệt quan trọng là phải xem nguyên lý đó được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo như thế nào.
Thông thường, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đề xuất những quan điểm lý luận mới do yêu cầu của cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và yêu cầu bảo vệ phát triển những nguyên lý trước sự tấn công của các thế lực thù địch. Chẳng hạn Lênin viết tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, để chuẩn bị về lý luận cho Cách mạng Tháng 10 Nga, song cũng xuất phát từ yêu cầu đấu tranh, bảo vệ và phát triển những quan điểm của Mác - ăngghen về nhà nước trong điều kiện mới. Trong điều kiện như vậy, khi viết tác phẩm, thường các nhà kinh điển sử dụng thủ pháp “bút chiến”, thông qua đấu tranh với những luận điệu sai trái mà bảo vệ, phát triển những luận điểm khoa học. Tất nhiên những tác phẩm viết dưới dạng chính luận cũng có, song dù thể loại gì thì những luận điểm của các nhà kinh điển cũng được đưa ra trong những hoàn cảnh cụ thể, chẳng hạn về vấn đề nhà nước, trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Mác - ănghen chỉ nêu “phải giành lấy dân chủ, phải trở thành giai cấp thống trị”, đến tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”, Mác đã nêu luận điểm đập tan bộ máy nhà nước tư sản. Trong bức thư gửi Vâyđờ maye, Mác đã nêu phải thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản...; Luận điểm về cách mạng XHCN, Mác nêu cách mạng XHCN chỉ có thể giành thắng lợi khi nổ ra đồng thời ở các nước tư bản phát triển, tới Lênin, Người có phát triển mới, cách mạng XHCN có thể nổ ra và thắng lợi ở một nước kém phát triển, tới Hồ Chí Minh, Người lại nói: cách mạng vô sản có thể nổ ra và giành thắng lợi ở một nước thuộc địa... Gắn lý luận với thực tiễn, đặc biệt là thực tiễn Việt Nam giúp người nghiên cứu hiểu nguyên lý trong sự phát triển. Rằng, khi nghiên cứu cần làm rõ những luận điểm có giá trị vĩnh hằng, những luận điểm cần bổ sung và những luận điểm đã bị lịch sử vượt qua. Và có như vậy mới hiểu rõ bản chất của từng nguyên lý và sự vận dụng và phát triển nguyên lý lý luận trong những điều kiện lịch sử - cụ thể./.
_______________________________
(1) A. Anhxtanh và Inphendơ (1995), sự phát triển của vật lý học, Mátxcơva, tr.48- tiếng Nga.
(2) C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. CTQG, H., T.21, tr.523.
(3) Sđd, T.20, tr.64.
(4), (5), (6) Sđd, T.13, tr.614, tr.614 – 615.
(7) V. I. Lênin (1981), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M, T.29, tr.360.
(8), (9) Sđd, T.12, tr877, tr.877 – 878.
(10) Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Nxb. CTQG, H., T.8, tr.496.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền Số tháng 6.2006
Bài liên quan
- Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
- Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
- Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
- Đôi nét về triết học ngoài mác-xít hiện đại
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Xây dựng mô hình tự quản trong phương pháp quản lý lưu học sinh nước ngoài tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Học viện Báo chí và Tuyên truyền là cơ sở đào tạo trong lĩnh vực báo chí, truyền thông và lý luận chính trị có uy tín trên cả nước. Bởi vậy, việc liên kết đào tạo về các lĩnh vực này không chỉ được thực hiện ở các đơn vị đào tạo trong nước mà còn được thực hiện cả ở sự liên kết đào tạo quốc tế. Hàng năm, Học viện đón tiếp một lượng lớn sinh viên quốc tế theo học ở các bậc cử nhân, cao học và nghiên cứu sinh. Do vậy, công tác quản lý sinh viên quốc tế là công tác quan trọng và có tính đặc thù. Công tác này để đạt hiệu quả tốt không chỉ thuộc về phương pháp và trách nhiệm của các đơn vị trong học viện mà còn phụ thuộc vào chính năng lực tự quản của các em. Tuy nhiên, để sự tự quản được thực hiện có chất lượng cần thực hiện trên nguyên tắc: Học viện định hướng – phòng Quản lý Ký túc xá xây dựng phương pháp và giám sát – lưu học sinh tự quản. Với nguyên tắc trên, phòng Quản lý ký túc xá đã thu được những thành công nhất định. Bài viết này trình bày những kinh nghiệm đã thu được trong qua trình xây dựng mô hình tự quản trong tập thể lưu học sinh nước ngoài tại học viện.
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, mặc dù không để lại những tác phẩm chuyên nghiên cứu về quản lý phát triển xã hội, nhưng qua các tác phẩm về kinh tế - chính trị, chính trị - xã hội của các ông, có thể rút ra những luận điểm cơ bản về quản lý phát triển xã hội. Các luận điểm này giúp các nhà quản lý xã hội thấy được bức tranh toàn cảnh xã hội một cách duy vật, cụ thể, với tính cách là kết quả hoạt động thực tiễn xã hội của con người.
Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
Sau khi hai tác phẩm kinh điển “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu và “Bàn về khế ước xã hội” của Rousseau chuyển bị về mặt lý luận cho Cách mạng dân chủ tư sản Pháp ra đời người ta thường nói đến thuộc tính pháp quyền gắn liền với nền dân chủ tư sản, người ta nói đến nhà nước pháp quyền tư sản, hệ thống dân chủ tư sản. Đến chủ nghĩa xã hội thì thuộc tính pháp quyền này lại ít được nhắc đến. Liệu chủ nghĩa xã hội có mang thuộc tính pháp quyền hay không và thuộc tính pháp quyền này khác với thuộc tính pháp quyên dân chủ tư sản như thế nào?
Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, lần đầu tiên vấn đề nhà nước được V.I.Lênin trình bày một cách có hệ thống. Giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm là đã làm sáng tỏ tính quy luật trong sự sinh thành, vận động và phát triển, đưa ra những dự báo khoa học về xu hướng và điều kiện về sự tự tiêu vong của nhà nước trong tiến trình tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị khoa học, cách mạng và tính thời sự. Trong tình hình hiện nay, nắm vững thực chất và vận dụng tư tưởng của tác phẩm là cơ sở vững chắc để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vừa là nhiệm vụ thường xuyên, vừa là công việc lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là nhiệm vụ khó khăn và phức tạp bởi “đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất của giai cấp vô sản”(1). Bài viết nghiên cứu tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch, phân tích ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc và vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin vào cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng ở nước ta hiện nay.
Bình luận