Một số vấn đề đặt ra về vai trò của báo chí đối với công tác hoạch định chính sách của Đảng hiện nay
1. Vai trò của báo chí đối với công tác hoạch định chính sách
Vai trò nổi bật của báo chí đối với các nhà hoạch định chính sách được thể hiện ở các điểm sau:
- Thông tin báo chí nhanh, cập nhật hàng ngày, hàng giờ giúp các nhà hoạch định và thực thi chính sách công nắm bắt tình hình, có cái nhìn tổng quan về các vấn đề của đất nước và trên thế giới, tìm hiểu về vấn đề chính sách mà họ đang nghiên cứu và thực hiện, từ đó xây dựng phương án và đề ra các biện pháp xử lý kịp thời, giúp quá trình chính sách diễn ra thuận lợi, suôn sẻ.
- Để phục vụ công tác hoạch định chính sách công, các cơ quan Đảng, Nhà nước và các chuyên gia phải thu thập, tìm hiểu thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó thông tin báo chí là một nguồn quan trọng. Với những thông tin chính thống, về cơ bản đã được kiểm chứng, biên tập, báo chí cung cấp cho các nhà hoạch định và thực thi chính sách công lượng thông tin ngày càng nhiều, đa chiều và chi tiết hơn về mọi mặt của đời sống xã hội.
- Là tấm gương phản ánh xã hội, báo chí cung cấp bức tranh đa chiều cho công chúng cả mặt tích cực và tiêu cực, những vấn đề nổi cộm, yếu kém, đặc biệt là những vấn đề gây bức xúc trong nhân dân. Một chủ trương, chính sách sẽ có kết quả tốt nếu trong quá trình hoạch định được tìm hiểu kỹ, đánh giá trung thực, khách quan hiện trạng vấn đề, nhu cầu, lợi ích của nhân dân, mà báo chí đã cung cấp tương đối đầy đủ cho các nhà hoạch định chính sách. Báo chí thường phản ánh những vấn đề bức xúc, những điểm nóng kinh tế - xã hội, những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Chính những bài báo đó đã gây áp lực xã hội, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền liên quan phải nghiên cứu giải quyết. Nhiều chính sách mới ra đời từ những bài báo như thế. Đồng thời, trong suốt quá trình tìm hiểu, khảo sát để xây dựng đường lối, chính sách, báo chí thường xuyên bám sát vấn đề, đưa tin về những sự kiện, vụ việc liên quan, cung cấp số liệu, tình hình thực tế để các cơ quan có thẩm quyền tham khảo, củng cố thêm cơ sở khoa học trong hoạch định chính sách.
Báo chí có vai trò quan trọng trong tất cả các bước của quy trình chính sách công, từ hoạch định đến thực thi và đánh giá chính sách. Quá trình hình thành ý tưởng vấn đề chính sách đến khi thảo luận, thu thập tài liệu, nghiên cứu, khảo sát thực tiễn, lấy ý kiến các cơ quan chuyên môn, các chuyên gia, người dân… diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định (thường một vài năm). Báo chí thường xuyên đồng hành với quá trình này. Khi vấn đề chính sách được cả xã hội quan tâm (nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến người dân như việc làm, giáo dục, y tế, bảo vệ sức khỏe, an sinh xã hội, vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường…), báo chí thường xuyên bám sát chủ đề đó, phản ánh kịp thời diễn biến, tình hình, phỏng vấn những người có chuyên môn và thẩm quyền, cung cấp thông tin từ các khía cạnh khác nhau về vấn đề chính sách. Đây là những thông tin quý mà các các nhà hoạch định và thực thi chính sách công tham khảo cho công việc của mình.
Tất cả các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều được lấy ý kiến rộng rãi từ các tầng lớp nhân dân, trong đó có báo chí. Với tư cách là cơ quan ngôn luận của các cơ quan, tổ chức, báo chí phản ánh thông tin cả chiều từ trên xuống (chủ trương, chính sách) và từ dưới lên (ý kiến của người dân, chuyên gia về độ đúng sai, tác động, ảnh hưởng đến xã hội), đặc biệt là khâu giám sát việc thực hiện chính sách, góp phần ngăn chặn việc lợi dụng chức quyền, để bóp méo chính sách, tham nhũng chính sách.
Đường lối đổi mới của Đảng ta cũng bắt đầu từ những bài báo phản ánh tình hình bế tắc về cơ chế, nhất là bệnh quan liêu, bao cấp, ngăn sông cấm chợ, kế hoạch hóa một cách cứng nhắc, giáo điều, làm thui chột động lực của người dân. Những bài báo về những mô hình khoán hộ gia đình trong sản xuất nông nghiệp, cơ chế khoán sản phẩm trong công nghiệp, những bài báo phản ánh thực tiễn cuộc sống sôi động, vươn lên vượt nghèo khó là một kênh thông tin quan trọng giúp Đảng ta thay đổi tư duy, đề xướng công cuộc đổi mới đất nước. Trong nhiều trường hợp, một vấn đề nào đó được báo chí quan tâm, phản ánh mạnh mẽ, tạo dư luận xã hội, buộc các cơ quan có thẩm quyền vào cuộc, nghiên cứu vấn đề và khi thấy rõ tầm quan trọng của nó đã nâng lên thành vấn đề chính sách. Nhiều quyết sách của đất nước được ban hành, phù hợp với quy luật phát triển, đồng thời thể hiện được vai trò của báo chí là “cầu nối” tin cậy giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, tạo thêm niềm tin trong công chúng xã hội.
Trong quá trình xây dựng đường lối, chính sách, các cơ quan hoạch định chính sách đã thu thập và xử lý thông tin từ nhiều nguồn về vấn đề chính sách, trên cơ sở đó xây dựng các phương án để trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và ban hành chính sách. Đây là khâu rất quan trọng, đòi hỏi thông tin phải đầy đủ, nhiều chiều, toàn diện, chính xác. Với đội ngũ nhà báo đông đảo, từ nhiều cơ quan, ngành nghề khác nhau, thông tin báo chí được coi là kênh chính thống, đáng tin cậy, nên được các nhà hoạch định chính sách quan tâm sử dụng.
Khai thác tốt và hiệu quả thông tin từ báo chí là cách tốt nhất để không ngừng nâng cao trình độ văn hóa, tri thức và chính trị của đội ngũ cán bộ hoạch định và thực thi chính sách. Thông tin báo chí vừa là nguyên liệu đầu vào, vừa là nguồn tin dồi dào, đa chiều cho việc thực thi và điều chỉnh chính sách.
2. Một số vấn đề đặt ra đối với báo chí trong tham gia hoạch định chính sách
Trong giai đoạn mở rộng dân chủ ở nước ta hiện nay, quá trình chính sách công diễn ra công khai, minh bạch, ý kiến của người dân và dư luận xã hội ngày càng được coi trọng, thông tin báo chí càng được sử dụng tối đa và phát huy vai trò đối với chính sách công. Nhu cầu thông tin của các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách công ngày càng cao. Nắm bắt thông tin từ báo chí trở thành nhu cầu tất yếu của các chủ thể chính sách công(1). Điều này cho thấy thông tin, nhất là báo chí luôn được các chủ thể chính sách công coi như hệ thần kinh của hệ thống tư vấn, tham mưu, điều hành quản lý. Báo chí cung cấp dữ liệu phục vụ công tác hoạch định chính sách công, mặt khác nội dung chính sách được truyền đi như các thông điệp để việc thực hiện được thuận lợi, thông suốt. Báo chí có mặt và tác động đến tất cả các hoạt động, các khâu của quá trình chính sách công.
Thứ nhất, tính định hướng và tính phát hiện vấn đề, tính chiến đấu của báo chí trong tham gia hoạch định chính sách vẫn còn bất cập.
Công tác định hướng vấn đề chính sách của báo chí dù đã cố gắng cập nhật, bám sát thực tiễn nhưng có thời điểm vẫn chưa kịp thời, chưa trúng. Đặc biệt, trước sự xuất hiện của Internet, mạng xã hội, tốc độ lan truyền thông tin hiện nay vô cùng nhanh chóng đặt báo chí trước rất nhiều áp lực về tính cập nhật. Chính vì vậy, trong nhiều trường hợp, báo chí chưa thể hiện rõ nét vai trò định hướng dư luận xã hội, góp phần giải thích chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời định hướng thông tin, gửi thông điệp đến các nhà hoạch định chính sách.
Các cơ quan báo chí còn ít quan tâm đến nội dung đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình”, các biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cán bộ, đảng viên. Việc tổ chức đấu tranh chống các thông tin xấu, độc hại còn thụ động, lúng túng, kết quả thấp do thiếu tính sắc bén, tính thuyết phục chưa cao. Kết quả khảo sát thực tế(2) cho thấy, thông tin mà các báo đăng tải chủ yếu là tin tức sơ lược, văn bản, ít bài phân tích, bình luận, giải thích về các chủ trương, chính sách giúp nhân dân hiểu rõ hơn.
Tính chiến đấu của các cơ quan báo chí, nhất là báo chí địa phương, chưa mạnh, chủ yếu dừng lại ở mức độ phản ánh; còn ít bài điều tra, phân tích, bình luận sâu sắc, có giá trị phát hiện vấn đề, đề xuất phương hướng, biện pháp giải quyết. Mặc dù thông tin báo chí đã đến được với phần lớn người dân nhưng hiệu quả tiếp nhận thông tin chưa cao. Qua thăm dò ý kiến của một số nhà báo kỳ cựu, lãnh đạo ngành, địa phương thì một bộ phận không nhỏ người dân không đọc báo và xem các chương trình của đài phát thanh và truyền hình tỉnh mình. Nguyên nhân chính là do báo chí địa phương chưa thực sự nói lên nhu cầu, nguyện vọng của người dân, trình độ đội ngũ phóng viên còn nhiều bất cập, ngại va chạm, và đặc biệt là lãnh đạo các cơ quan báo chí tỉnh cũng không đủ “bản lĩnh” để khuyến khích phóng viên đi sâu điều tra những vụ việc gây bức xúc kéo dài trên địa bàn, khiến niềm tin của người dân đối với các cơ quan báo chí địa phương suy giảm nghiêm trọng và hệ quả là ít vấn đề do báo chí nêu được phát triển thành vấn đề chính sách của địa phương.
Thứ hai, sự bất hợp lý và thiếu cân xứng giữa thông tin tích cực và thông tin tiêu cực, ít đề xuất phương hướng giải quyết các vấn đề tiêu cực.
Một số báo hiện nay dành phần lớn thời lượng, số trang để đưa tin tiêu cực, nhất là tiêu cực trong công tác cán bộ, chính sách cán bộ, vô tình hình thành khoảng cách, nghi ngờ lẫn nhau giữa các nhà báo với các nhà lãnh đạo, quản lý. Có những thông tin đúng, nhưng do nhà báo không tìm hiểu kỹ vấn đề nên cách viết vẫn có ý nghi ngờ, gây hoang mang dư luận. Thậm chí có những thông tin không chính xác do hiểu nhầm khái niệm. Những thông tin như thế gây khó khăn cho quá trình điều hành của Chính phủ, phải mất nhiều công sức để giải thích cho người dân, lấy lại niềm tin của đối tác nước ngoài.
Vấn đề đặt ra cấp bách hiện nay là các cơ quan báo chí phải xây dựng, tập hợp lực lượng để viết những bài báo trí tuệ, sắc sảo, đầy đủ cơ sở pháp lý và thực tiễn để tuyên truyền chính sách, đồng thời gợi mở vấn đề chính sách. Đấu tranh có hiệu quả chống những quan điểm sai trái, thù địch, khắc phục tình trạng thông tin đơn điệu, một chiều, thiếu hấp dẫn.
Mặc dù các báo đã đưa tin, bài tuyên truyền về đường lối, chính sách mới, nhất là Nghị quyết của Đảng, nhưng còn khô cứng, một chiều, thậm chí mang tính công thức - trích dẫn văn bản, thiếu hấp dẫn, không gây được sự chú ý, ấn tượng đối với công chúng. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là các cơ quan báo chí phải đổi mới mạnh mẽ theo hướng đa phương tiện, đồng thời truyền phát thông tin trên các phương tiện khác nhau; hình thức đưa tin phải đa dạng, phong phú: đối với báo hình, báo nói, báo điện tử, thông tin phải ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ; đối với báo in và tạp chí, thông tin phải dài, sâu sắc, lý lẽ thuyết phục, chứng cứ đầy đủ, tin cậy.
Thứ ba, ý thức chính trị, trách nhiệm xã hội, phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn của một bộ phận cán bộ, phóng viên báo chí chưa cao.
Một số nhà báo chưa ý thức đầy đủ về trách nhiệm chính trị trước dân tộc, nghĩa vụ của người làm báo cách mạng, chưa quán triệt đầy đủ, sâu sắc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, thiếu hiểu biết pháp luật, chỉ chú tâm vào khai thác các chủ đề đáp ứng thị hiếu của một bộ phận công chúng, dẫn đến viết những bài báo hời hợt, dễ dãi và vô tình vi phạm pháp luật hoặc bôi nhọ danh dự của tổ chức, cá nhân, hoặc kích động bạo lực, cổ súy lối sống thực dụng, tự do chủ nghĩa. Đã xuất hiện thông tin báo chí đi chệch định hướng chính trị, a dua với báo chí nước ngoài phê phán chủ nghĩa Mác- Lênin (ví dụ, đưa tin, trích dẫn lời các vị Tổng thống, Thủ tướng phê phán Lênin, Xtalin và chế độ XHCN ở Liên Xô), hoài nghi hoặc phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh, đòi xem xét lại hoặc xoá bỏ Điều 4 Hiến pháp (tước bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam); tán thành, cổ vũ quan điểm đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; đòi lật lại một số vấn đề lịch sử đã được kết luận, xuyên tạc lịch sử (nhất là về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc), kiến nghị “khôi phục quy chế độc lập cho báo chí”. Đã có không ít nhà báo vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Tính tiên phong của báo chí trong đấu tranh chống suy thoái, tha hóa quyền lực của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên (như Đảng ta đã chỉ ra) nhất là đảng viên là cán bộ lãnh đạo quản lý, chưa cao, chưa hình thành được chủ đề kiểm tra, giám sát và phản biện đối với công tác cán bộ của Đảng, chưa bám sát được thực tiễn cuộc sống xã hội. Gần đây, mức độ tham gia của báo chí trong hoạch định và tuyên truyền các nghị quyết của Đảng, nhất là trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, về chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cán bộ, đảng viên chưa cao, chưa tạo được nhiều diễn đàn để chuyên gia, người dân phản ánh những vấn đề cấp bách cần giải quyết của xã hội. Nguyên nhân chủ yếu là do nhà báo chưa nghiên cứu kỹ, chưa hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề, chưa “nhập cuộc” vào đời sống chính trị - xã hội.
Hiện tượng các nhà báo trung ương về nhũng nhiễu, đe dọa cán bộ lãnh đạo quản lý và doanh nghiệp ở các địa phương vẫn xảy ra. Bài viết của những đối tượng này thường không phản ánh trung thực, thiếu khách quan, quy chụp, giật gân câu khách với dụng ý tư lợi là kiếm tiền hoặc hợp đồng quảng cáo. Đội quân báo “lá cải” này thường cấu kết với nhau thành từng nhóm đi dọa nạt các cơ quan chính quyền, doanh nghiệp, nếu không đạt được mục đích chúng sẽ viết bài bôi nhọ, nói xấu.
Một số tờ báo thiếu nhạy bén chính trị, lại hướng tới mục tiêu “câu khách” nên vẫn đưa thông tin sai sự thật, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của một số cán bộ lãnh đạo cao cấp. Đáng lưu ý, xu hướng báo in, báo điện tử khai thác thông tin từ mạng xã hội nhưng không kiểm chứng, sai sự thật, gây bức xúc cho một số cá nhân, cơ quan. Ví dụ, báo chí đồng loạt đưa tin thiếu chính xác về đạo đức, tác phong, về tài sản, nhà cửa, biệt thự, tình trạng tham nhũng, cửa quyền, đạo đức lối sống của một số đồng chí lãnh đạo, nhất là ở các địa phương, làm ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức, cá nhân các nhà lãnh đạo. Đây là dạng sai phạm có tác động xấu đến dư luận xã hội, là kẽ hở để báo chí nước ngoài, các trang tin điện tử của các thế lực chống đối lợi dụng để xuyên tạc công tác cán bộ của chúng ta. Ví dụ, một số thông tin về chính sách đối ngoại, quan hệ Việt - Trung, Việt - Mỹ, Việt- Lào, Việt - Campuchia, về các dự án thua lỗ, về sự yếu kém của doanh nghiệp trong nước, về ô nhiễm môi trường... đã bị các thế lực thù địch lợi dụng, kích động tâm lý chống đối Đảng và Nhà nước, nhưng một số cơ quan báo chí của ta lại hùa theo, thiếu bài phản bác, đấu tranh. Một số chương trình truyền hình thiếu chọn lọc thông tin, thiếu tính chính trị, gây hoang mang dao động trong công chúng. Các cơ quan báo chí tự khai thác thông tin, thậm chí coi đó là tất yếu trong cơ chế cạnh tranh thông tin, nhưng do hạn chế về nguồn tin, năng lực nhà báo có hạn, nên có lúc đưa tin vội vàng, thiếu thẩm định. Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Thông tin và Truyền thông hàng tuần đều họp giao ban báo chí, nhắc nhở những sai phạm, định hướng thông tin thời gian tới, tuy nhiên sự phối hợp giữa các cơ quan báo chí nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị chưa tốt. Ở một số tờ báo ngành, xuất hiện xu hướng hư vô về chính trị, thiếu đạo đức nghề nghiệp. Một số nhà báo lạm dụng chức danh nghề nghiệp làm công cụ trục lợi, gây sức ép lên lãnh đạo các địa phương, doanh nghiệp để tống tiền, ký hợp đồng quảng cáo; hoặc chạy theo tin tức, sự kiện giật gân, khoét sâu cái xấu, để các thế lực thù địch lợi dụng công kích nhằm làm mất uy tín các cơ quan quản lý, nhất là công an, tòa án; một số khác lại hùa theo soi mói, công kích, thậm chí bịa đặt, “giăng bẫy” người thi hành công vụ .
Như vậy, vấn đề đặt ra là phải làm tốt công tác cán bộ đối với cơ quan chủ quản, ban biên tập báo chí. Phải lựa chọn những người có đủ bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức, có uy tín trong giới báo chí, có khả năng lãnh đạo, quản lý công tác báo chí và cơ quan báo chí. Ban biên tập, phóng viên là những người trực tiếp điều hành, tác nghiệp, cho nên phải là những người tâm huyết với nghề, có bản lĩnh, không xa ngã trước những cám dỗ vật chất, dũng cảm đấu tranh chống cái ác, cái xấu, biết bênh vực và bảo vệ cái tốt, cái tiến bộ, nhất là am hiểu về lĩnh vực chính trị để sáng tạo tác phẩm có chất lượng cao phục vụ công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Phải xây dựng cơ chế, chính sách cho cơ quan báo chí, kết hợp hài hòa chức năng chính trị với chức năng kinh tế, để nhà báo sống được bằng nghề, phát triển nghề một cách đàng hoàng, đúng pháp luật.
Thứ tư, một số cơ quan báo chí có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, thiếu trách nhiệm khi khai thác và truyền tải thông tin; công tác xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí đã nghiêm minh hơn, nhưng chưa đủ sức răn đe; công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về báo chí chưa theo kịp thực tiễn.
Trên báo chí, những bài viết về những tấm gương cán bộ Đảng, Nhà nước, những đảng viên hết lòng vì nước, vì dân ít dần, nếu có cũng khô khan, thiếu sinh khí. Các bài viết trên một số báo về nghị quyết, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, hoạt động của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước thường được đưa tin một cách hình thức, thiếu hấp dẫn, dường như đối phó với chủ trương “đúng định hướng”. Một số báo lại viết những bài tâng bốc lãnh đạo cấp trên hoặc doanh nghiệp (có yếu tố thị trường) thái quá, gây phản cảm, bị các thế lực thù địch và những người bất đồng chính kiến khai thác, lợi dụng để công kích sự lãnh đạo của Đảng với báo chí. Một số nhà báo có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, né tránh viết bài trên báo chính thống về những vấn đề họ tự cho là “nhạy cảm”, nhưng lại đăng trên mạng xã hội ý kiến ngược lại, tỏ thái độ bất mãn, thiếu thiện chí, thu hút sự tán đồng của đám đông cộng đồng mạng.
Mặc dù nhiều vụ việc đã được các cơ quan chức năng xử lý công khai, cung cấp thông tin chính thống, nhưng một số tờ báo vẫn lười biếng không chịu viết bài phân tích, bình luận, mà đăng lại bản tin của Thông tấn xã Việt Nam. Một số báo còn tùy tiện khai thác thông tin từ báo chí nước ngoài, dựa vào quan điểm của các hãng thông tấn phương Tây, thậm chí cả báo, trang tin của người Việt Nam ở nước ngoài để phân tích, bình luận về những vấn đề quốc tế, vấn đề nhân quyền, tôn giáo..., vô tình ca ngợi cả những người Việt thành đạt ở nước ngoài nhưng nổi tiếng chống đối Đảng và Nhà nước ta. Đó lại là thái độ thiếu ý thức chính trị, thiếu trách nhiệm trong khai thác và truyền tải thông tin, gây nhiễu thông tin, dẫn đến sự nghi ngờ, hoang mang trong công chúng.
Báo chí chưa đáp ứng được yêu cầu “thời sự”, còn nặng tư duy tuyên truyền một chiều, mang tính hình thức, lễ tân (tỷ lệ tin thăm viếng, hội họp, hội thảo... chiếm tỷ lệ nhiều hơn mức cho phép trên các bản tin thời sự của các Đài PT-TH; thông tin kinh tế - xã hội vừa thiếu vừa thừa, vừa khó thẩm định độ chính xác, thiếu thông tin chuyên sâu; thông tin chính sách trên báo chí chưa đạt được chất lượng cao và khả năng tác động chưa sâu rộng; mảng thông tin chỉ dẫn và thông tin tư vấn còn chưa được chú trọng; chưa có sự đồng đều trong tổ chức bộ máy báo chí ở trung ương và địa phương. Trong mấy năm gần đây, các cơ quan của Bộ Thông tin và Truyền thông đã phải mạnh tay xử phạt vi phạm hành chính đối với hàng trăm trường hợp với hình thức: phạt tiền, cảnh cáo, thu hồi, rút giấy phép xuất bản, tạm dừng phát hành, đình chỉ hoạt động, cách chức Tổng biên tập… Tuy nhiên, cần ngăn chặn ngay từ đầu các vi phạm, chứ không phải xử lý vi phạm, vì công tác báo chí là “người” dẫn đường, định hướng dư luận, những thông tin phát ra, bất luận dưới hình thức nào, cũng gây dư luận nhiều chiều trong xã hội.
Vấn đề đặt ra là vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng trong cơ quan báo chí chưa được phát huy đúng mức, người đứng đầu cơ quan báo chí thực hiện chưa nghiêm trách nhiệm của mình, còn chạy theo chủ nghĩa thực dụng hoặc tùy tiện “khoán trắng” cho ban biên tập; công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng đối với báo chí chưa thường xuyên; công tác nghiên cứu lý luận và thực tiễn báo chí để đổi mới, nâng cao chất lượng nhằm phục vụ công tác lãnh đạo quản lý chưa được quan tâm.
Như vậy, không thể phủ nhận, trong những năm qua, cùng với sự phát triển của đất nước, báo chí đã làm tốt vai trò định hướng dư luận xã hội, gợi mở những vấn đề cấp thiết, từ đó các cơ quan hoạch định chính sách đã chú ý và đưa vào chương trình nghị sự để giải quyết, hình thành vấn đề chính sách. Báo chí cũng là lực lượng tiên phong trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, ngăn chặn các thông tin xấu độc hại, góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân vào sự nghiệp đổi mới. Tuy nhiên, muốn phát huy hiệu quả hơn nữa vai trò của báo chí trong đời sống chính trị nói chung, trong công tác hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước nói riêng, cần nhận thức thấu đáo, đầy đủ, sâu sắc những vấn đề đặt ra đối với vai trò của báo chí trong công tác này thời gian qua, từ đó tìm kiếm những giải pháp đồng bộ, khả thi để giúp cho báo chí thực sự trở thành vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng và Nhà nước, kể cả trong quy trình chính sách, từ hoạch định đến thực hiện và đánh giá chính sách./.
_________________________
(1) Vào tháng 10.2008, Trung tâm Thông tin dự báo kinh tế - xã hội quốc gia thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra nhận định về TTBC đối với LĐQL: Một trong những nguyên nhân của các biến động kinh tế gần đây ở Việt Nam là sự “khủng hoảng về thông tin” trong quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô.
(2) Nguyễn Đức Lợi - Lưu Văn An, Thông tin báo chí với công tác lãnh đạo, quản lý, Nxb Thông tấn, 2017.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đức Lợi, Lưu Văn An (2017), Thông tin báo chí với công tác lãnh đạo, quản lý, Nxb Thông tấn, H, 2017.
2. Tạ Ngọc Tấn (2016), Hoạt động truyền thông chính trị của báo chí Việt Nam: kinh nghiệm và gợi mở cho tương lai, TC LLCT và TT, số 6.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông tháng 4.2021
Bài liên quan
- Nhà báo đấu tranh chống tin giả trên mạng xã hội
- Một số vấn đề lý luận cơ bản về xây dựng và quản trị thương hiệu trực tuyến
- Báo chí thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội - vấn đề và giải pháp
- Đào tạo báo chí trong bối cảnh mới
- Vai trò của biên tập và yêu cầu luật hóa quy trình biên tập xuất bản hiện nay
Xem nhiều
- 1 Mạch Nguồn số 56: Dấu ấn về mùa thu lịch sử
- 2 Chuẩn cơ sở giáo dục đại học của Học viện Báo chí và Tuyên truyền: Đánh giá và giải pháp, kiến nghị
- 3 Giáo dục văn hoá doanh nghiệp cho người lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa - góc nhìn từ thực tiễn thành phố Hà Nội hiện nay
- 4 Toàn văn phát biểu của đồng chí Tổng Bí Thư, Chủ tịch nước tại Lễ kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và đón nhận Huân chương Lao động Hạng Nhất
- 5 Tổ chức hoạt động truyền thông tại một số công ty du lịch vừa và nhỏ tại Việt Nam: Những hạn chế, thách thức và giải pháp
- 6 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh kỷ niệm 75 năm truyền thống và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Xây dựng Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trở thành hình mẫu về công tác xây dựng Đảng
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đề nghị cần xây dựng Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thật sự trở thành hình mẫu về công tác xây dựng Đảng; hình mẫu về giữ gìn kỷ cương học đường, kỷ luật học tập, địa chỉ đỏ ươm trồng những phẩm chất tốt đẹp của người Cộng sản.
Nhà báo đấu tranh chống tin giả trên mạng xã hội
Nhà báo đấu tranh chống tin giả trên mạng xã hội
Báo chí là kênh giữ vai trò chủ đạo trong việc định hướng dư luận xã hội, bác bỏ và ngăn chặn các dòng thông tin sai lệch, đặc biệt là tin giả từ mạng xã hội. Mỗi nhà báo là một chiến sĩ, vừa có nhiệm vụ truyền tải, dẫn dắt dòng thông tin thời sự đúng đắn, chính xác, bổ ích cho công chúng, vừa đấu tranh chống lại những tác động tiêu cực của tin giả, lành mạnh hóa môi trường thông tin.
Một số vấn đề lý luận cơ bản về xây dựng và quản trị thương hiệu trực tuyến
Một số vấn đề lý luận cơ bản về xây dựng và quản trị thương hiệu trực tuyến
(LLCT&TT) Mạng xã hội phát triển đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mọi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Khi cộng đồng mạng xã hội lớn mạnh cũng trở thành một “thế giới thu nhỏ”, tạo cơ hội cho doanh nghiệp phát triển thương hiệu của mình. Bên cạnh những ưu việt mà mạng xã hội mang lại cho thương hiệu như: gia tăng nhận thức về thương hiệu, tiết kiệm chi phí truyền thông, giúp khách hàng dễ dàng tương tác với thương hiệu hơn, thì việc quản trị danh tiếng thương hiệu trên mạng xã hội đang là vấn đề cấp thiết thu hút sự chú ý của nhiều nhà quản trị chiến lược truyền thông hiện đại. Bài viết này sẽ cung cấp những vấn đề lý luận cơ bản như khái niệm thương hiệu, tài sản thương hiệu cũng như hoạt động quản trị thương hiệu doanh nghiệp trực tuyến.
Báo chí thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội - vấn đề và giải pháp
Báo chí thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội - vấn đề và giải pháp
(LLCT&TT) Báo chí là loại hình phương tiện truyền thông đại chúng vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội. Vai trò, tầm quan trọng của báo chí không chỉ là phản ánh đời sống xã hội qua việc thông tin nhanh nhất, chân thực nhất những vấn đề mang tính thời sự trong nước và quốc tế, là việc định hướng thông tin và dư luận xã hội mà còn có vai trò giám sát và phản biện xã hội. Trong bối cảnh đất nước ta đang đổi mới và hội nhập quốc tế mạnh mẽ để phát triển thì vai trò của báo chí trong việc thông tin, định hướng thông tin và giám sát, phản biện xã hội càng quan trọng hơn bao giờ hết. Bài viết góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn của báo chí trong việc thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội như là một phương tiện, phương thức phát huy dân chủ XHCN và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong bối cảnh mới.
Đào tạo báo chí trong bối cảnh mới
Đào tạo báo chí trong bối cảnh mới
(LLCT&TT) Khoa học công nghệ phát triển đã tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội, thay đổi thói quen, điều kiện tiếp nhận thông tin của công chúng và ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của báo chí. Sự thay đổi của báo chí trong môi trường số đã đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề đào tạo nhà báo tại các cơ sở đào tạo báo chí chuyên nghiệp. Yêu cầu đặt ra đối với các cơ sở đào tạo báo chí là không chỉ tạo nguồn nhân lực báo chí thích ứng với yêu cầu mới mà còn đặt nền tảng để nguồn nhân lực thích ứng trong thời gian dài hơn do bối cảnh công nghệ thay đổi và phát triển rất nhanh.
Bình luận