Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay
Thực trạng năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã tại tỉnh Tuyên Quang hiện nay
Tỉnh Tuyên Quang hiện có 138 xã, phường, thị trấn với gần 2.700 cán bộ, công chức các xã, phường, thị trấn, trong đó có 1.383 cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở luôn quan tâm lãnh chỉ đạo, thực hiện nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn nói riêng. Nhờ đó, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã được nâng lên.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã tại tỉnh Tuyên Quang có vai trò quan trọng trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tại cơ sở, góp phần trực tiếp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Trong những năm qua, đội ngũ này đã có những chuyển biến tích cực về trình độ chuyên môn, năng lực quản lý và phẩm chất đạo đức, nhờ sự quan tâm của các cấp chính quyền đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng cán bộ. Tuy nhiên, thực tế vẫn cho thấy nhiều bất cập trong năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, đặc biệt là trong bối cảnh yêu cầu đổi mới và phát triển ngày càng cao.
Một trong những vấn đề nổi bật hiện nay là trình độ chuyên môn của một bộ phận cán bộ chủ chốt cấp xã chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Dù tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng ngày càng tăng, nhưng vẫn còn một số cán bộ chưa được đào tạo bài bản về quản lý nhà nước, kinh tế, luật pháp và hành chính công. Điều này dẫn đến những hạn chế trong việc triển khai các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Nhiều cán bộ vẫn thực hiện công việc theo kinh nghiệm, thiếu sự chủ động trong việc tiếp thu và áp dụng các phương pháp quản lý hiện đại, dẫn đến tình trạng trì trệ, chậm đổi mới trong công tác quản lý và điều hành ở cấp cơ sở.
Hiện nay, cán bộ lãnh đạo các cấp của tỉnh là nữ chiếm 29,5%; người dân tộc thiểu số chiếm gần 58%. Trong đó, từ 31-50 tuổi chiếm hơn 71%. Tuy nhiên, hiện mới chỉ có 2/138 Bí thư Ðảng ủy cấp xã là nữ, Bí thư Ðảng ủy kiêm Chủ tịch HÐND là 7/138 người, Phó Bí thư Ðảng ủy 48 người, Chủ tịch UBND chỉ có 6/138 người, Phó Chủ tịch UBND là 33/276 người. Về cơ cấu độ tuổi, dù đã được quan tâm, nhưng số lượng cán bộ trẻ đến nay vẫn còn thấp, dưới 30 tuổi chỉ chiếm 18,01% (có 69/1.383 người), chủ yếu là Bí thư Ðoàn Thanh niên và Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã. Về trình độ học vấn, một bộ phận chưa được đào tạo, bồi dưỡng cơ bản, toàn diện, hiện vẫn còn 11/1.383 cán bộ lãnh đạo xã chỉ tốt nghiệp trung học cơ sở (chiếm 0,79%). Về chuyên môn nghiệp vụ, còn 13/1.383 người chỉ có trình độ sơ cấp (chiếm 1,06%), đến tháng 5/2022 vẫn còn bảy người chưa có bằng chuyên môn; số có trình độ trung cấp là 219 người (chiếm 15,83%) (1).
Bên cạnh trình độ chuyên môn, kỹ năng lãnh đạo và quản lý của cán bộ cấp xã cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Công tác quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ ở một số địa phương chưa thực sự bài bản, khiến một số cán bộ khi được bổ nhiệm chưa có đủ kinh nghiệm, kỹ năng để điều hành công việc một cách hiệu quả. Khả năng lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, giám sát và đánh giá hiệu quả công việc của cán bộ vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là trong các lĩnh vực phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới và giải quyết các vấn đề an sinh xã hội. Một số cán bộ còn lúng túng trong việc xử lý các tình huống phát sinh từ thực tiễn địa phương, chưa có tư duy chiến lược và tầm nhìn dài hạn để phát triển kinh tế - xã hội ở cấp cơ sở.
Ngoài ra, kỹ năng giao tiếp, tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng là một trong những điểm yếu của nhiều cán bộ cấp xã. Do thiếu kỹ năng mềm và chưa được đào tạo bài bản về công tác dân vận, nhiều cán bộ còn chưa thực sự sâu sát với người dân, dẫn đến tình trạng giải quyết công việc chưa thấu đáo, gây bức xúc trong nhân dân. Trong một số trường hợp, việc tiếp thu ý kiến của người dân còn mang tính hình thức, chưa có sự phản hồi kịp thời và hiệu quả, làm giảm lòng tin của nhân dân vào chính quyền cơ sở. Việc thực hiện công khai, minh bạch trong các hoạt động quản lý hành chính công tại cấp xã cũng chưa thực sự hiệu quả, dẫn đến những hạn chế trong việc huy động sự tham gia của người dân vào các chương trình phát triển địa phương.
Một thực trạng khác cần được quan tâm là sự thiếu hụt cán bộ có năng lực ở một số địa bàn vùng sâu, vùng xa, nơi điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn. Nhiều cán bộ được điều động về công tác tại đây chưa thích nghi tốt với điều kiện làm việc, dẫn đến hiệu quả công việc không cao. Mặt khác, do chế độ đãi ngộ và cơ hội phát triển nghề nghiệp còn hạn chế, việc thu hút cán bộ trẻ có trình độ, năng lực làm việc lâu dài tại cơ sở vẫn còn là một thách thức lớn. Điều này tạo ra tình trạng mất cân đối về chất lượng cán bộ giữa các khu vực trong tỉnh, ảnh hưởng đến sự phát triển đồng đều của các địa phương.
Bên cạnh đó, yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và điều hành tại cấp xã ngày càng cao, nhưng không phải cán bộ nào cũng có đủ kỹ năng để sử dụng hiệu quả các công cụ hỗ trợ công tác hành chính và quản lý địa phương. Việc chuyển đổi số trong quản lý nhà nước đòi hỏi cán bộ phải có kiến thức về công nghệ, khả năng tiếp cận và sử dụng các phần mềm quản lý hành chính công, nhưng hiện nay, một số cán bộ chủ chốt cấp xã vẫn gặp khó khăn trong việc thích ứng với các nền tảng công nghệ mới. Điều này ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng giải quyết công việc, đặc biệt là trong bối cảnh cải cách hành chính và xây dựng chính quyền điện tử đang được đẩy mạnh.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã tại tỉnh Tuyên Quang đã có những tiến bộ đáng kể trong thời gian qua, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế cần được khắc phục. Việc nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng lãnh đạo, quản lý và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác hành chính là yêu cầu cấp thiết để đội ngũ cán bộ cấp xã có thể đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Để giải quyết những tồn tại này, cần có các giải pháp đồng bộ từ khâu quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cho đến chính sách thu hút và giữ chân nhân tài, nhằm đảm bảo một đội ngũ cán bộ thực sự có năng lực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
Giải pháp nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã tại tỉnh Tuyên Quang trong giai đoạn hiện nay
Trước những yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý nhà nước ở cấp cơ sở, việc nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã tại tỉnh Tuyên Quang là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết. Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ này, cần có các giải pháp đồng bộ, từ việc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, hoàn thiện chính sách tuyển dụng, quy hoạch cán bộ, đến việc nâng cao chất lượng quản lý, giám sát và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý hành chính công. Các giải pháp này không chỉ giúp nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực quản lý của cán bộ mà còn góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền cấp xã, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong giai đoạn mới.
Một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu là đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Hiện nay, nhiều cán bộ chủ chốt cấp xã vẫn chưa được đào tạo bài bản về quản lý hành chính công, pháp luật, kinh tế - xã hội, cũng như các kỹ năng lãnh đạo, điều hành. Do đó, cần tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu, tập trung vào việc nâng cao kiến thức quản lý nhà nước, kỹ năng hoạch định và triển khai chính sách, kỹ năng giải quyết công việc trong thực tiễn. Các chương trình bồi dưỡng cần được xây dựng theo hướng sát thực tế, kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, giúp cán bộ áp dụng hiệu quả vào công tác điều hành địa phương. Bên cạnh đó, việc đa dạng hóa các hình thức đào tạo, như đào tạo trực tuyến, đào tạo tại chỗ hoặc mô hình "cầm tay chỉ việc" tại các địa phương có điều kiện tốt hơn, cũng là một cách để nâng cao chất lượng đào tạo, tạo điều kiện cho cán bộ học hỏi kinh nghiệm thực tiễn từ những mô hình quản lý hiệu quả.
Song song với việc đào tạo, cần đổi mới công tác quy hoạch, tuyển dụng và sử dụng cán bộ cấp xã theo hướng linh hoạt, hiệu quả hơn. Hiện nay, một số địa phương vẫn còn tình trạng bố trí cán bộ chưa phù hợp với trình độ chuyên môn, gây lãng phí nguồn nhân lực và ảnh hưởng đến hiệu quả công tác. Vì vậy, cần có cơ chế tuyển chọn cán bộ chủ chốt cấp xã theo hướng nâng cao tiêu chuẩn về trình độ, năng lực chuyên môn, đồng thời tạo điều kiện để cán bộ trẻ có trình độ cao được thử sức ở các vị trí lãnh đạo cơ sở. Việc quy hoạch cán bộ cũng cần đảm bảo tính liên tục và kế thừa, tránh tình trạng hụt hẫng về đội ngũ lãnh đạo cấp xã khi có sự thay đổi nhân sự.
Đặc biệt, cần có chính sách thu hút, khuyến khích cán bộ có năng lực công tác lâu dài tại các xã vùng sâu, vùng xa bằng các cơ chế đãi ngộ phù hợp, giúp họ yên tâm công tác và gắn bó với địa phương. Cần tăng cường vai trò của cán bộ nữ trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã của tỉnh Tuyên Quang. Theo Ban Tổ chức Tỉnh ủy, công tác cán bộ nữ được các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm thực hiện quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng và đề bạt. Riêng ở cấp xã, tổng số cán bộ nữ chiếm tỷ lệ trên 33%, trong đó cấp ủy viên xã 557 người, chiếm tỷ lệ 28,88%; nữ tham gia HĐND xã 1.006 người, chiếm tỷ lệ 33,62% (2). Tỉnh tiếp tục quan tâm chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp tạo nguồn cán bộ nữ, đảm bảo tỷ lệ, cơ cấu hợp lý, sát hợp với từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương để cán bộ nữ có điều kiện phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành, phát huy năng lực, tương xứng với vai trò của phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Một giải pháp quan trọng khác là nâng cao chất lượng công tác giám sát, đánh giá và quản lý cán bộ cấp xã. Hiện nay, một số cán bộ sau khi được bổ nhiệm chưa có cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả công tác một cách rõ ràng, dẫn đến tình trạng làm việc cầm chừng, thiếu chủ động và sáng tạo. Vì vậy, cần thiết lập hệ thống đánh giá hiệu quả làm việc của cán bộ theo các tiêu chí cụ thể, đo lường được kết quả thực hiện nhiệm vụ. Công tác đánh giá cần được thực hiện công khai, minh bạch, có sự tham gia của người dân để đảm bảo tính khách quan, đồng thời làm cơ sở cho việc bố trí, sắp xếp lại cán bộ phù hợp với năng lực thực tế. Ngoài ra, cần tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm đạo đức công vụ hoặc làm việc kém hiệu quả để nâng cao trách nhiệm của cán bộ trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh các giải pháp về đào tạo, quy hoạch và giám sát cán bộ, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính cấp xã cũng là một trong những yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ. Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, cán bộ cấp xã cần được đào tạo và nâng cao kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, giúp họ nắm vững các công cụ hỗ trợ quản lý, xử lý công việc nhanh chóng, hiệu quả hơn. Việc triển khai chính quyền điện tử, hệ thống dịch vụ công trực tuyến yêu cầu cán bộ phải có đủ năng lực để vận hành và hướng dẫn người dân sử dụng, từ đó nâng cao chất lượng phục vụ của bộ máy chính quyền cấp cơ sở. Do đó, cần đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ, đồng thời tổ chức các lớp tập huấn về sử dụng phần mềm quản lý hành chính, xử lý văn bản điện tử, quản lý hồ sơ trực tuyến nhằm nâng cao năng lực của cán bộ trong thời đại số hóa.
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, cần tăng cường các cơ chế giao tiếp, đối thoại giữa chính quyền và nhân dân, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa cán bộ với cộng đồng. Việc tổ chức các buổi tiếp dân định kỳ, lắng nghe ý kiến của người dân và phản hồi kịp thời các vấn đề phát sinh sẽ giúp cán bộ hiểu rõ hơn nhu cầu, mong muốn của người dân, từ đó có những chính sách phù hợp với thực tiễn địa phương. Đồng thời, việc nâng cao kỹ năng tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vấn đề dân sinh cũng cần được chú trọng, giúp cán bộ có khả năng xử lý tình huống linh hoạt, hiệu quả hơn trong thực tế công tác.
Nhìn chung, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã tại tỉnh Tuyên Quang là một nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương và các cơ quan liên quan. Các giải pháp về đào tạo, tuyển dụng, giám sát và ứng dụng công nghệ cần được triển khai đồng bộ, có lộ trình cụ thể để đảm bảo hiệu quả lâu dài. Khi đội ngũ cán bộ cấp xã được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng và bản lĩnh quản lý, chính quyền cơ sở sẽ hoạt động hiệu quả hơn, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai đoạn hiện nay./.
_____________________________
(1) Ban Tổ chức tỉnh ủy Tuyên Quang, Báo cáo tình hình phát triển đội ngũ cán bộ năm 2023, Tuyên Quang.
(2) Ban Tổ chức tỉnh ủy Tuyên Quang, Báo cáo công tác cán bộ năm 2024, Tuyên Quang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Đề án số 15-ĐA/TU về xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang giai đoạn 2023 - 2030 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
- Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
[Video] Dấu ấn Cách mạng Tháng Tám qua những hiện vật lịch sử
-
2
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
-
3
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
-
4
Truyền thông đại chúng trong kỷ nguyên số: động lực đổi mới mô hình phát triển xã hội Việt Nam hiện nay
-
5
Tác động của quảng cáo sản phẩm trên mạng xã hội đến hành vi mua sắm của học sinh trung học phổ thông Hà Nội
-
6
Báo chí với xây dựng văn hóa số ở Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
[Ảnh] Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025-2030 (Phiên thứ nhất)
Thực hiện Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 14-4-2025 của Bộ Chính trị, các văn bản chỉ đạo của Trung ương về đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Kế hoạch số 59-KH/ĐU ngày 22-4-2025 của Đảng ủy Học viện, chiều 10/8/2025, Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trang trọng tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025-2030 (Phiên thứ nhất).
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Trong suốt hơn hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, tên của Tổng thống Vladimir Putin đã trở thành biểu tượng gắn liền với tiến trình phát triển và chuyển mình của Liên bang Nga. Từ một quốc gia đối mặt với khủng hoảng kinh tế - chính trị nghiêm trọng sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin đã từng bước khôi phục ổn định, nâng cao vị thế quốc tế và củng cố bản sắc quốc gia. Dù vẫn còn không ít tranh cãi, không thể phủ nhận rằng Tổng thống Vladimir Putin đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nước Nga hiện đại như một nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn lao và lâu dài. Bài viết được thực hiện với mục đích phân tích các giai đoạn cầm quyền của ông, từ đó làm rõ những đóng góp, lựa chọn chiến lược và quyết sách của Ông đối với vận mệnh quốc gia. Qua đó, góp phần lý giải vì sao Tổng thống Vladimir Putin được xem là “người sẽ cứu nước Nga” trong thời kỳ chuyển giao và định hình bản sắc, quyền lực quốc gia hậu Xô Viết.
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Công cuộc tinh gọn bộ máy nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước hiện đại, hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả, phục vụ nhân dân. Trong tiến trình đó, công tác cán bộ đóng vai trò trung tâm, bởi cán bộ chính là người tổ chức và thực thi cải cách. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự tương xứng với yêu cầu đổi mới bộ máy nhà nước. Bài viết tiếp cận vấn đề từ nền tảng lý luận Mác, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng để phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn trong đổi mới công tác cán bộ, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống chính trị trong bối cảnh mới.
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh chuyển đổi số y tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn quốc, một số bệnh viện tuyến trung ương đã bước đầu ứng dụng truyền thông số hiệu quả trong tư vấn tâm lý – xã hội, kết nối cộng đồng và vận động nguồn lực, tuy nhiên, phần lớn bệnh viện tuyến tỉnh, huyện chưa có điều kiện triển khai đầy đủ. Bài viết đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tích hợp truyền thông số vào hoạt động công tác xã hội (CTXH) tại bệnh viện, góp phần định hướng phát triển CTXH bệnh viện theo hướng chuyên nghiệp, công bằng và thích ứng với bối cảnh số hóa y tế đến năm 2030.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Theo thống kê trong giai đoạn từ 2013 – 2023 cho thấy độ tuổi kết hôn trung bình của người dân đang có xu hướng tăng(1). Vì vậy, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi này tại Việt Nam. Bài nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi trong độ tuổi kết hôn của người dân Việt Nam, đồng thời phân tích rõ ảnh hưởng của những nhân tố như trình độ học vấn, nền tảng gia đình, địa lý, chi phí sinh hoạt, thu nhập, nghề nghiệp và truyền thông tới việc trì hoãn kết hôn, thông qua dữ liệu từ cuộc khảo sát gồm 736 người trong độ tuổi từ 18 – 35, trải rộng khắp các vùng miền của Việt Nam. Qua đó, nhóm tác giả nêu lên một số đánh giá về tác động của hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ tới sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sau cùng, nhóm tác giả đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề trì hoãn kết hôn của người trẻ Việt Nam hiện nay.
Bình luận