Nhìn lại 16 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW về nội dung công tác phát triển cán bộ nữ - Những kết quả đạt được và định hướng trong thời gian tới
Tầm nhìn, quan điểm và một số kết quả đạt được
Nghị quyết số 11-NQ/TW được ban hành vào thời điểm sau 20 năm đổi mới, là sự tiếp tục và phát triển mang tính chỉnh thể về tầm nhìn chiến lược và quyết sách chiến lược của Đảng ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là sự tiếp nối các quyết sách trước đó của Đảng về công tác cán bộ nữ, như Nghị quyết số 152-NQ/TW, ngày 10/1/1967, của Ban Bí thư Trung ương, “Về một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận”; Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày 16/5/1994, của Ban Bí thư Trung ương, “Về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”... Các chỉ thị, nghị quyết này đều xác định cần tiếp tục quy hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ bằng giải pháp xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng lao động nữ nói chung và cán bộ nữ nói riêng. Nghị quyết số 11-NQ/TW một lần nữa khẳng định, xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Ðảng.
Qua 16 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, các cấp, ngành, địa phương đã đạt nhiều kết quả tích cực. Việc xây dựng, thực hiện quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ nữ ngày càng được chú trọng. Chính sách phát triển đội ngũ cán bộ nữ không ngừng được đổi mới, hoàn thiện và tổ chức thực hiện toàn diện, đồng bộ, từ công tác lãnh đạo, quản lý tới hoạt động nghiên cứu khoa học; từ ưu tiên tuyển chọn cán bộ nữ, lao động nữ có trình độ đại học, trên đại học tới việc chăm lo bồi dưỡng, phát triển tài năng nữ. Số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý có trình độ chuyên môn và lý luận chính trị phù hợp với vị trí việc làm ngày càng tăng; độ tuổi của cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý ngày càng trẻ hóa; vị thế của đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý được khẳng định và nâng cao.
Nếu nhiệm kỳ Đại hội VIII của Đảng có 1 đồng chí nữ là Ủy viên Bộ Chính trị, thì nhiệm kỳ Đại hội XII có 3 đồng chí nữ Ủy viên Bộ Chính trị và nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng có 2 đồng chí nữ là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư. Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia các cơ quan dân cử tăng so với nhiệm kỳ trước, với 151 đại biểu nữ tham gia Quốc hội khóa XV, đạt tỷ lệ 30,26% (cao hơn 3,54% so với nhiệm kỳ trước, nhưng vẫn chưa đạt chỉ tiêu là 35% - 40% do Nghị quyết số 11-NQ/TW đề ra).
Việt Nam cũng là quốc gia có số lượng nữ đại biểu Quốc hội chiếm tỷ lệ cao trong khu vực, đứng thứ 51 trên thế giới, thứ 4 ở châu Á và đứng đầu trong Hội đồng Liên minh nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện đạt 29% (tăng so với nhiệm kỳ trước). Với tỷ lệ này, Việt Nam nằm trong nhóm các nước đứng đầu thế giới có tỷ lệ phụ nữ tham chính cao; đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN và đứng thứ 47/187 quốc gia trên thế giới được xếp hạng về bình đẳng giới trong tham chính; xếp thứ 87/156 quốc gia về chỉ số thu hẹp khoảng cách giới.
Đặc biệt, tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước được nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Tính đến tháng 12/2022, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có lãnh đạo chủ chốt là phụ nữ chiếm 50%, tiệm cận với chỉ tiêu đề ra đến năm 2025. Nhiều đồng chí cán bộ nữ được Đảng, Nhà nước tín nhiệm giữ vị trí, trọng trách cao trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, tiêu biểu như các đồng chí Nguyễn Thị Xuân Mỹ, Nguyễn Thị Kim Ngân, Tòng Thị Phóng, Trương Thị Mai, Bùi Thị Minh Hoài, Nguyễn Thị Doan, Đặng Thị Ngọc Thịnh, Võ Thị Ánh Xuân...
Mới đây nhất, ngày 6/3/2023, đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, vinh dự được Trung ương giao trọng trách Thường trực Ban Bí thư. Đây là cán bộ nữ đầu tiên đảm nhận cương vị rất quan trọng này; điều đó cũng khẳng định sự thành công của Đảng trong công tác lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ nữ ngang tầm nhiệm vụ. Cùng với sự tiến bộ và phát triển của đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý, đội ngũ nữ trí thức, nhà khoa học không ngừng phát triển, trưởng thành. Nhiều nhà khoa học nữ xuất sắc trên các lĩnh vực được tôn vinh và trao tặng giải thưởng, trong đó có Giải thưởng Kovalevskaia - Giải thưởng dành riêng cho các nhà khoa học nữ trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học cơ bản. Rõ ràng, phụ nữ Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò, vị thế, sức mạnh và uy tín trong nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội của đất nước.
Mặc dù kết quả đạt được là rất lớn và khá toàn diện, song cần thẳng thắn nhìn nhận rằng: So với mục tiêu và 5 nhiệm vụ được đề ra trong Nghị quyết số 11-NQ/TW, có một số nội dung và cả những chỉ tiêu đến năm 2020 chúng ta chưa đạt được: 1- Tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý còn thấp so với đội ngũ lao động nữ và so với yêu cầu phát triển của đất nước. Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy và hội đồng nhân dân các cấp còn thấp so với yêu cầu của Nghị quyết số 11-NQ/TW. 2- Mặc dù đã có chủ trương, chính sách, hệ thống văn bản pháp luật thúc đẩy bình đẳng giới trong hoạt động chính trị, nhưng việc bảo đảm các điều kiện thuận lợi về kinh tế, văn hóa - xã hội để phụ nữ phát huy vai trò của mình vẫn còn nhiều vấn đề cần tháo gỡ; cụ thể:
Một là, nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền về bình đẳng giới, về vai trò, năng lực của phụ nữ còn hạn chế; hai là, ở một số nơi, việc bố trí, sắp xếp công tác cho cán bộ nữ đôi khi chưa hợp lý nên chưa phát huy được năng lực, sở trường của cán bộ nữ, chưa tạo điều kiện để cán bộ nữ vươn lên; ba là, hoạt động của các cấp hội phụ nữ đã có sự đổi mới, song chưa theo kịp sự phát triển. Việc tham mưu cho cấp ủy về công tác phụ nữ của một số cấp hội phụ nữ chưa kịp thời; bốn là, nhận thức của nhiều nhóm xã hội về vai trò, vị thế chính trị của phụ nữ vẫn còn có định kiến và khắt khe hơn nhiều so với nam giới, làm hạn chế khả năng và sự thăng tiến của phụ nữ trong các lĩnh vực hoạt động chính trị - xã hội, khiến cho tỷ lệ cán bộ nữ tham chính vẫn trong tình trạng vừa thiếu về số lượng, vừa hạn chế về vị trí đảm nhận so với tiềm năng của phụ nữ và yêu cầu phát triển đất nước; năm là, một bộ phận phụ nữ còn có tư tưởng tự ti, an phận, ngại thay đổi môi trường công tác, ngại phấn đấu; sáu là, chính sách cho cán bộ nữ còn có những hạn chế nhất định, cần nhanh chóng được khắc phục.
Một số định hướng giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện tốt công tác phát triển cán bộ nữ trong giai đoạn mới
Trước những đòi hỏi của thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, để phụ nữ có điều kiện phát huy năng lực, tự tin tham gia và thực hiện tốt vai trò quan trọng của mình trên tất cả lĩnh vực, công tác phát triển cán bộ nữ cần không ngừng được đổi mới và đột phá hơn nữa theo hướng sau:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, góp phần đạt được các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, nhằm tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới bình đẳng trong mọi lĩnh vực.
Thứ hai, chú trọng hơn nữa công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ làm công tác lãnh đạo, quản lý và phát triển toàn diện phụ nữ. Cần xác định, việc tạo điều kiện để phụ nữ tham gia vào công tác lãnh đạo, quản lý là trách nhiệm và công việc quan trọng, thường xuyên của Đảng và Nhà nước, các bộ, ban, ngành, các địa phương, nhất là ở cấp cơ sở, để tránh sự thiếu hụt về số lượng cán bộ nữ. Tăng cường sự tham gia tích cực, có hiệu quả của các nhóm xã hội, nhất là cán bộ nam trong việc thực hiện nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác phát triển đội ngũ cán bộ nữ, để có được đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ trong tổng thể chiến lược công tác cán bộ của Đảng. Công tác phụ nữ cần thực hiện sát hợp với từng đối tượng, vùng, miền, phát huy tinh thần làm chủ, tiềm năng, sức sáng tạo và khả năng đóng góp cao nhất của các tầng lớp phụ nữ vào sự phát triển của đất nước; chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi mặt, quan tâm đầy đủ đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng để phụ nữ có điều kiện thực hiện tốt nhất vai trò của mình trong gia đình và xã hội.
Thứ ba, nâng cao chất lượng hoạt động của các cấp hội phụ nữ trong giai đoạn hiện nay và sắp tới. Tiếp tục thực hiện tốt công tác phát triển cán bộ nữ theo tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị và thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, các cấp hội phụ nữ cần chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong việc lựa chọn nội dung hoạt động; bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng, nhiệm vụ của địa phương để lựa chọn những hoạt động phù hợp với điều kiện của tổ chức hội và của hội viên; hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, nâng cao trình độ, tham gia ngày càng nhiều hơn và hiệu quả hơn vào các hoạt động chính trị - xã hội. Bản thân mỗi phụ nữ cũng cần phấn đấu vươn lên, khắc phục tư tưởng an phận, tự ti; đồng thời, loại bỏ thói ganh ghét, đố kỵ nhau xuất hiện ngay trong nội bộ đội ngũ cán bộ nữ, tuy không phải là thực trạng phổ biến.
Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế nhằm phát triển phụ nữ mạnh mẽ và toàn diện nói chung, đội ngũ cán bộ nữ nói riêng. Tiếp tục chủ động phối hợp chặt chẽ và hiệu quả hơn nữa với các tổ chức quốc tế nhằm phát triển, nâng cao năng lực của phụ nữ làm việc trong các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước; phát huy vai trò lãnh đạo của cán bộ nữ có tài năng trong khu vực công; qua đó, góp phần phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo nhân lực nữ cho phát triển kinh tế tri thức, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số; chú trọng đào tạo cán bộ nữ trong đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo và trong các lĩnh vực có tỷ lệ cán bộ nữ chưa tương xứng, nhằm phát triển toàn diện và nâng cao hơn nữa vị thế, sức mạnh và tiềm năng của phụ nữ nước ta trong bối cảnh mới./.
____________________________________________
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2011), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, T.1, tr. 169.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 8/9/2023
Bài liên quan
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
- Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
- Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới
- Phát huy vai trò của người có uy tín ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”
- Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi gắn liền với cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Xem nhiều
-
1
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
-
2
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
-
3
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
-
4
Truyền thông đại chúng trong kỷ nguyên số: động lực đổi mới mô hình phát triển xã hội Việt Nam hiện nay
-
5
Tác động của quảng cáo sản phẩm trên mạng xã hội đến hành vi mua sắm của học sinh trung học phổ thông Hà Nội
-
6
Thực trạng nội dung thông tin về chính sách y tế trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Phiên thứ hai Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025-2030
Thực hiện Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 14-4-2025 của Bộ Chính trị và các văn bản của Trung ương về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; Kế hoạch số 59-KH/ĐU ngày 22-4-2025 của Đảng ủy Học viện về tổ chức Đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2025-2030, được sự đồng ý của Đảng ủy các cơ quan Đảng Trung ương, sáng ngày 11-8-2025, tại Hà Nội, Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã trọng thể tổ chức Phiên thứ 2 Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025-2030.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứTư và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức diễn ra mạnh mẽ, việc xây dựng lực lượng sản xuất mới trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam. Trong đó, nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò then chốt, quyết định khả năng tiếp thu, ứng dụng và sáng tạo khoa học – công nghệ, thúc đẩy năng suất lao động, đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Bài viết tập trung làm rõ vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay - nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở nước ta.
Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
Sự hình thành và phát triển của các hội là một phương thức cần thiết để các cá nhân và nhóm xã hội khác nhau có thể bày tỏ tiếng nói, ý kiến của mình trước cộng đồng xã hội, tạo sự hiểu biết, hiệp thương và đồng thuận nhằm giữ gìn sự ổn định xã hội. Ở Việt Nam, quyền lập hội của công dân đã được Hiến pháp quy định và trong thực tế Nhà nước đã tạo điều kiện cho hội hoạt động, phát triển qua việc ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh việc tổ chức và hoạt động của các hội. Bài viết đề cập đến khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của các hội trong bối cảnh phát triển ở Việt Nam hiện nay.
Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới
Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới
Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia có ý nghĩa to lớn, là yếu tố then chốt để thúc đẩy sự phát triển đất nước. Việc xây dựng và duy trì không gian mạng an toàn, ổn định và tự chủ sẽ là nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững, cho sự vươn mình của dân tộc Việt Nam trong thời đại ngày nay.
Phát huy vai trò của người có uy tín ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”
Phát huy vai trò của người có uy tín ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”
Việt Nam có 54 dân tộc anh em, trong đó có 53 dân tộc thiểu số với trên 14 triệu người, chiếm khoảng 14,7% dân số cả nước, sinh sống thành cộng đồng, cư trú xen kẽ, tập trung chủ yếu ở các khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, duyên hải miền Trung và Tây Nam Bộ. Trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở nước ta, người có uy tín có vai trò quan trọng trong triển khai đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, là nòng cốt trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, giữ vững chủ quyền, an ninh, trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và khu vực biên giới.
Bình luận