Phát huy vai trò trụ cột của công tác đối ngoại nhân dân trong nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại vì lợi ích quốc gia - dân tộc
Cơ hội nhiều, thách thức lớn
Thời gian qua, công tác đối ngoại nói chung và đối ngoại nhân dân nói riêng hoạt động trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động sâu sắc; tính bất ổn, bất định gia tăng mạnh và khó dự báo, tác động đa chiều đến môi trường an ninh và phát triển của các quốc gia. Xung đột và tranh chấp có xu hướng gia tăng, diễn biến căng thẳng hơn tại nhiều khu vực, trong đó việc sử dụng và đe dọa sử dụng “sức mạnh cứng” kết hợp với sử dụng “sức mạnh mềm” để can thiệp vào các quốc gia, được đẩy mạnh hơn. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn và khát vọng chung của nhân loại, song đang đứng trước nhiều trở ngại, thách thức. Các “điểm nóng” trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo diễn biến hết sức phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ đe dọa hòa bình, ổn định tại khu vực, thách thức chủ quyền, quyền chủ quyền của các nước. Luật pháp quốc tế và trật tự quốc tế dựa trên luật lệ tuy được đề cao, song việc diễn giải theo lợi ích và thực thi gặp nhiều thách thức… Đại dịch COVID-19 cơ bản được kiểm soát, song những hệ lụy của đại dịch này làm bộc lộ nhiều khiếm khuyết ở nhiều góc độ khác nhau khi nhân loại phải đối mặt với các đại dịch trong tương lai. Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, triển vọng phục hồi trong ngắn hạn được cho là sẽ bấp bênh, không đồng đều. Toàn cầu hóa gặp nhiều trở ngại. Các nước lớn có những điều chỉnh rõ nét trong chính sách đối ngoại nhằm hiện thực hóa lợi ích quốc gia và các mục tiêu chiến lược. Cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc diễn ra gay gắt trong những lĩnh vực cốt lõi, buộc các nước phải tìm cách quản lý quan hệ và tìm kiếm điểm tương đồng. Khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và Đông Nam Á ngày càng đóng vai trò quan trọng, trở thành địa bàn chính của cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc. Chủ nghĩa đa phương toàn cầu được củng cố nhưng thiếu đột phá, trong khi hợp tác tiểu đa phương có xu hướng gia tăng. Các vấn đề an ninh truyền thống diễn biến phức tạp trở lại, chạy đua vũ khí thế hệ mới làm dấy lên quan ngại về kiểm soát vũ khí chiến lược và an ninh toàn cầu. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức mới về an ninh và xã hội.
Tình hình đó tác động sâu sắc, nhiều chiều tới Việt Nam, vừa mang đến nhiều cơ hội, song cũng đặt ra không ít thách thức đối với môi trường an ninh, phát triển của đất nước, đòi hỏi mặt trận đối ngoại nói chung, công tác đối ngoại nhân dân nói riêng phải không ngừng nỗ lực, củng cố và đưa các mối quan hệ đối ngoại thêm chặt chẽ, đi vào chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế, góp phần tạo thế và lực mới cho đất nước, phấn đấu trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030, trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.
Quán triệt và bám sát các mục tiêu, nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25/10/2013, của Bộ Chính trị, “Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10/4/2013, của Bộ Chính trị, “Về hội nhập quốc tế”; Chỉ thị số 04-CT/TW, ngày 6/7/2011, của Ban Bí thư, “Về tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới” và Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 5/1/2022, của Ban Bí thư, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả đối ngoại nhân dân trong tình hình mới”, công tác đối ngoại nhân dân không ngừng đổi mới hoạt động, gia tăng chiều sâu kết hợp với nhiều hình thức hợp tác phong phú, đạt nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp hiệu quả vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đối ngoại chung của đất nước.
Một là, xây dựng hình ảnh một đất nước Việt Nam hòa bình, hữu nghị, hòa hiếu với bạn bè quốc tế. Đây là phương châm xuyên suốt của đối ngoại Việt Nam trong các giai đoạn, từ thời kỳ đấu tranh cách mạng cho đến công cuộc đổi mới. Nội hàm “hữu nghị” trong phương châm đối ngoại Việt Nam chính là từ “bạn”, trong đó tư duy được thay đổi tịnh tiến, từ “muốn là bạn”, “sẵn sàng là bạn” đến “là bạn, là đối tác tin cậy trong cộng đồng quốc tế”. Kế thừa và tiếp nối phương châm đó, trong những năm qua, đối ngoại nhân dân Việt Nam đã chủ động và tích cực mở rộng, tăng cường quan hệ hữu nghị, hòa bình, hợp tác với tổ chức nhân dân các nước trên thế giới trên cả bình diện song phương, đa phương, tạo nền tảng quốc tế thuận lợi cho đối ngoại đảng và ngoại giao nhà nước. Cụ thể:
Trên bình diện song phương, đối với các nước láng giềng chung biên giới (Trung Quốc, Lào, Campuchia) và các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), các tổ chức nhân dân Việt Nam đã tích cực triển khai nhiều hoạt động hữu nghị, hợp tác có ý nghĩa thiết thực với nhiều hình thức đa dạng, phong phú(1); ký kết và triển khai các thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực; coi trọng các hoạt động “từ trái tim đến trái tim” thông qua việc tổ chức các cuộc gặp gỡ hữu nghị nhân dân, các diễn đàn hợp tác nhân dân, các hoạt động tuyên truyền, các cuộc thi tìm hiểu về truyền thống quan hệ giữa Việt Nam với các nước ở các cấp từ Trung ương đến địa phương..., thu hút sự tham gia rộng rãi của nhiều tầng lớp nhân dân, qua đó không chỉ góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết truyền thống, tin cậy lẫn nhau, tăng cường giao lưu và hợp tác nhân dân, giáo dục truyền thống cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, mà còn tạo ra các cơ chế giao lưu quan trọng để các học giả, nhà nghiên cứu và các chuyên gia gặp gỡ, trao đổi cởi mở, thẳng thắn trên tinh thần xây dựng về những vấn đề còn khác biệt.
Với các nước lớn như Mỹ, cùng với việc làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác truyền thống là các tổ chức cánh tả, tiến bộ, các tổ chức cựu chiến binh, tổ chức hòa bình, hữu nghị, các tổ chức nhân dân Việt Nam đã mở rộng quan hệ với các tổ chức xã hội, các trường đại học, trung học, trung tâm, viện nghiên cứu, tổ chức của con em các binh sĩ Mỹ mất tích trong chiến tranh ở Việt Nam; tích cực vận động các tổ chức và cá nhân góp phần vào việc thúc đẩy hòa giải, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, khắc phục hậu quả chiến tranh và tham gia công tác tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ Việt Nam và quân nhân Mỹ mất tích (MIA)(2).
Bên cạnh đó, các hoạt động hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước bạn bè truyền thống và đối tác quan trọng, như Cuba, Nga và các nước thuộc Liên Xô trước đây, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, các đối tác ở Đông Âu và Tây Âu, Mỹ và các nước Mỹ La-tinh, nhiều nước khác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Trung Đông, châu Phi... cũng tiếp tục được thúc đẩy.
Đặc biệt trong những năm gần đây, các hoạt động đối ngoại nhân dân Việt Nam được tổ chức song hành cùng với các hoạt động đối ngoại cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Trung Quốc (tháng 10/2022) chứng kiến lễ ký kết Bản ghi nhớ hợp tác hữu nghị giai đoạn 2022 - 2027 giữa Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam và Hội hữu nghị đối ngoại nhân dân Trung Quốc; Thủ tướng Cuba Manuel Marrero Cruz gặp gỡ lãnh đạo Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam và Hội Hữu nghị Việt Nam - Cuba (tháng 9/2022); Chủ tịch Đảng “Nước Nga thống nhất” Dmitry Medvedev đã có cuộc gặp Hội Hữu nghị Việt Nam - Liên bang Nga (tháng 5-2023); Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có cuộc gặp các nhân sĩ hữu nghị Trung Quốc trong chuyến thăm chính thức tới Trung Quốc (tháng 6/2023)..., qua đó, củng cố mối quan hệ hữu nghị với các bạn bè, đối tác truyền thống trong điều kiện mới; tạo sự gắn kết, mở ra những kênh đối thoại và hợp tác không chính thức, góp phần hòa giải nhiều khác biệt, tăng cường quan hệ với các đối tác quan trọng; mở rộng sự hợp tác với các đối tác mới nhằm huy động thêm nguồn lực từ bên ngoài để phục vụ phát triển đất nước và tham gia công tác vận động, đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc trong điều kiện mới.
Trên các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế, thực hiện chủ trương đa phương hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, cùng với việc tiếp tục tham gia, đóng góp có trách nhiệm với các tổ chức dân chủ, tiến bộ truyền thống, như Liên đoàn Thanh niên Dân chủ thế giới (WFDY), Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ thế giới (WIDF), Liên hiệp Công đoàn thế giới (WFTU), Hội đồng Hòa bình thế giới (WPC), Hội Luật gia Dân chủ thế giới (IADL)…, các tổ chức nhân dân Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia nhiều tổ chức, diễn đàn và cơ chế hợp tác nhân dân khu vực Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương và quốc tế quan trọng, có ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam, như Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC), Diễn đàn Nhân dân Á - Âu (AEPF), Diễn đàn Nhân dân ASEAN (APF), Ủy ban Liên chính phủ ASEAN về nhân quyền và các cơ chế hợp tác về Mekong, các tổ chức nông dân, công đoàn, nhà báo, nhà văn, luật sư… khu vực và quốc tế; đăng cai tổ chức thành công nhiều diễn đàn, hội nghị, hội thảo đa phương khu vực và quốc tế tại Việt Nam, trong đó phải kể đến Đại hội Quốc tế ngữ toàn cầu (năm 2012), Diễn đàn Nhân dân ASEAN (năm 2010 và 2020), Đại hội Quốc tế ngữ châu Á - châu Đại Dương (năm 2019)… Đặc biệt, năm 2022 ghi dấu ấn lần đầu tiên Việt Nam đăng cai và tổ chức thành công Đại hội lần thứ 22 Hội đồng Hòa bình thế giới, qua đó cho thấy sự đóng góp tích cực và đầy trách nhiệm của Việt Nam đối với các hoạt động của Hội đồng Hòa bình thế giới nói riêng và phong trào hòa bình thế giới nói chung. Ngoài ra, Việt Nam có nhiều đóng góp chung trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực, nhất là chống vũ khí hạt nhân(3), thúc đẩy việc thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững (SDG) của Liên hợp quốc, ứng phó với biến đổi khí hậu..., thể hiện trách nhiệm của Việt Nam nói chung và các tổ chức nhân dân Việt Nam nói riêng đối với cộng đồng quốc tế, góp phần nâng cao uy tín của các tổ chức nhân dân Việt Nam. Các diễn đàn nhân dân đa phương cũng đã giúp Việt Nam mở rộng và củng cố mạng lưới đối tác, bạn bè là các tổ chức tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới, những người luôn sẵn sàng ủng hộ Việt Nam không chỉ về tinh thần và vật chất trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, mà còn giúp đưa thông tin chính xác, khách quan về Việt Nam, chống những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch, phản động. Cũng chính các diễn đàn đa phương này là nơi để các tổ chức nhân dân Việt Nam giới thiệu với bạn bè quốc tế về hình ảnh một nước Việt Nam hòa hiếu, mến khách, yêu chuộng hòa bình, về những chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam, về những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, giúp các nước trên thế giới hiểu rõ hơn về đất nước, con người Việt Nam và quan trọng hơn là góp phần đập tan mọi âm mưu của các tổ chức, thế lực thù địch, phản động lợi dụng các diễn đàn để chống phá Việt Nam.
Nhiều hiệp hội khoa học - kỹ thuật, ngành, nghề của Việt Nam cũng đã mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác với các đối tác quốc tế, tham dự hoặc tổ chức không ít hội thảo, hội nghị quốc tế chuyên ngành về khoa học - kỹ thuật, nông nghiệp, kinh tế, văn hóa - nghệ thuật…; qua đó, tiếp cận được nhiều thông tin, kinh nghiệm, công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực tư vấn phản biện, đóng góp cho quá trình hoạch định chính sách của Nhà nước.
Hai là, tích cực tham gia đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Trong bối cảnh tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh hoạt động chống phá, cạnh tranh kinh tế ngày càng quyết liệt, các tổ chức nhân dân Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động để góp phần bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ hình ảnh và các lợi ích chính trị, an ninh và kinh tế của đất nước. Chẳng hạn, đối với vấn đề Biển Đông, các tổ chức nhân dân Việt Nam đã triển khai nhiều hình thức đấu tranh, phản đối mạnh mẽ việc xâm hại chủ quyền biển, đảo Việt Nam; tích cực tổ chức và tham gia các hội nghị, hội thảo quốc tế để giới thiệu, khẳng định chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động dư luận nhân dân các nước bày tỏ ủng hộ lập trường và lợi ích của Việt Nam trên Biển Đông(4); triển khai nhiều hoạt động thiết thực ủng hộ, động viên và hỗ trợ bộ đội, lực lượng chấp pháp và ngư dân Việt Nam để góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Các tổ chức nhân dân Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia đấu tranh bảo vệ hình ảnh và lợi ích của Việt Nam trong các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, nhất là tại các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế, như Liên hợp quốc, ASEAN. Trong bối cảnh các tổ chức thù địch, phản động tăng cường tham gia các diễn đàn nhân dân nhằm chống phá Việt Nam, các đoàn thể, như Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và một số tổ chức nhân dân khác đã tích cực chủ động tham gia các cơ chế này để bảo vệ lợi ích và vị thế của Việt Nam, ngăn chặn “từ sớm, từ xa” và đấu tranh với các thế lực thù địch, phản động.
Ba là, đẩy mạnh vận động và tranh thủ nguồn lực quốc tế phục vụ công cuộc phát triển đất nước. Với tinh thần “tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài” để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại nhân dân Việt Nam đã tích cực triển khai công tác vận động phi chính phủ nước ngoài(5) - một nguồn lực quan trọng góp phần hiện thực hóa các dự án phát triển và an sinh xã hội trong nước. Trong giai đoạn 2011 - 2020, tổng giá trị viện trợ giải ngân đạt 2,87 tỷ USD không hoàn lại, tập trung vào các lĩnh vực, như y tế (chiếm 33,2%), phát triển kinh tế - xã hội (18,5%), giải quyết các vấn đề xã hội (19,5%), giáo dục - đào tạo (10,6%), bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên (10,1%), cứu trợ khẩn cấp và tăng cường năng lực hội nhập quốc tế(6).
Bên cạnh đó, công tác đối ngoại nhân dân chú trọng tăng cường kết nối, hợp tác với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Bởi vì, nội hàm của đối ngoại nhân dân không chỉ bó hẹp trong xây dựng và tạo lập mối quan hệ hòa bình, hữu nghị với nhân dân và các tổ chức trên thế giới, mà còn cả kiều bào Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại nước ngoài. Đây chính là cầu nối vững chắc giúp nhân dân Việt Nam mở rộng cơ hội hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới, đồng thời là lực lượng quan trọng đóng góp cho nền kinh tế - xã hội của đất nước. Chỉ tính riêng giai đoạn 2016 - 2021, tổng giá trị viện trợ do các tổ chức phi chính phủ nước ngoài gốc Việt tài trợ đã lên đến trên 50 triệu USD, góp phần không nhỏ giải quyết các vấn đề, như y tế, giáo dục - đào tạo, phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, hỗ trợ tư pháp, viện trợ khẩn cấp, cung cấp tình nguyện viên…(7).
Bốn là, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại. Các tổ chức nhân dân Việt Nam đã tích cực góp phần tuyên tuyền, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước Việt Nam với bạn bè quốc tế; đồng thời, góp phần nâng cao hiểu biết và nhận thức của các tầng lớp nhân dân Việt Nam về chính sách đối ngoại của đất nước, về tình hình thế giới, khu vực và các vấn đề toàn cầu.
Công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại được lồng ghép trong cả hoạt động đối ngoại song phương và đa phương với hình thức tuyên truyền thường xuyên được đổi mới và phát triển, giúp các tổ chức nhân dân, bạn bè quốc tế tiếp cận thông tin rộng hơn, nhanh và chính xác hơn, nhất là trong tuyên truyền về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của Việt Nam những năm qua. Tăng cường thông tin đối ngoại về những vấn đề lý luận chính trị bằng các hình thức đối ngoại nhân dân phù hợp giúp đông đảo bạn bè thế giới hiểu hơn về hệ tư tưởng tiến bộ, khoa học, cách mạng, nhân văn của Đảng Cộng sản Việt Nam; về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam…
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đối ngoại nhân dân vẫn còn một số hạn chế, tồn tại, như: 1- Chất lượng, hiệu quả quan hệ với một số đối tác chưa cao, một số tổ chức nhân dân Việt Nam còn thụ động, thiếu chiều sâu trong quan hệ đối ngoại; 2- Công tác đấu tranh, vận động chính trị, nhất là trong vấn đề dân chủ, nhân quyền nhìn chung còn hạn chế cả về phạm vi tác động và hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu, diễn biến của tình hình; 3- Vị thế, vai trò của các tổ chức nhân dân Việt Nam tại một số diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế còn hạn chế; 4- Năng lực đội ngũ làm công tác đối ngoại nhân dân của nhiều đoàn thể chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trước bối cảnh mới, tình hình mới…
Định vị vai trò trong bối cảnh mới
Trong những năm tới, thế giới được dự báo sẽ bước vào giai đoạn tái định hình trật tự thế giới mới, nhất là sau những tác động sâu sắc của đại dịch COVID-19, cuộc xung đột Nga - Ukraine, thành tựu mới của khoa học - công nghệ… Điều này không chỉ tạo ra những thay đổi lớn, nhanh chóng và khó dự báo, đặc biệt đối với quan hệ quốc tế, cục diện khu vực châu Á - Thái Bình Dương, mà còn tác động đa chiều, sâu sắc đến môi trường đối ngoại nói chung và công tác đối ngoại nhân dân nói riêng của Việt Nam. Trong khi đó, qua gần 40 năm đổi mới, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(8), song cũng đứng trước không ít yêu cầu mới, vấn đề mới trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Để khai thác tối đa thuận lợi, thời cơ và vượt qua khó khăn, thách thức, trong thời gian tới, công tác đối ngoại nhân dân cần tiếp tục quán triệt sâu sắc các chủ trương, định hướng lớn về xây dựng một nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, dựa trên ba trụ cột đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, trên cơ sở một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất, phát huy thế mạnh đặc thù của đối ngoại nhân dân với đặc điểm chủ thể là nhân dân trong các quan hệ và hoạt động đối ngoại. Đây là đặc điểm gắn với tính phi nhà nước, phi chính phủ trong công tác đối ngoại nhân dân, cho phép hoạt động đối ngoại nhân dân có tính linh hoạt cao, có nội dung và hình thức đa dạng, không bị giới hạn, ràng buộc bởi các quy ước của ngoại giao chính thức, đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, tạo nền tảng xã hội hữu nghị với các nước và bạn bè quốc tế, khẳng định hình ảnh đất nước Việt Nam hòa bình, hữu nghị.
Thứ hai, tiếp tục khẳng định là một kênh tiêu biểu của “ngoại giao tâm công”, “chinh phục trái tim và khối óc”, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước đối với Việt Nam thông qua việc thuyết phục, vận động làm công cụ chính. Nếu như kết quả chính của các hoạt động ngoại giao nhà nước nhằm đạt được các cam kết, thỏa thuận có giá trị ràng buộc về pháp lý, thì kết quả trong hoạt động đối ngoại nhân dân là nhận thức, hiểu biết, thái độ của bạn bè, đối tác quốc tế đối với Việt Nam. Qua đó, biến sức mạnh vô hình về mặt tinh thần thành những kết quả hữu hình, như các dự án hợp tác, viện trợ, các hoạt động đoàn kết, ủng hộ - lực lượng vật chất quan trọng hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ ba, mở rộng đối tượng hợp tác của đối ngoại nhân dân không chỉ giới hạn ở tổ chức nhân dân, tổ chức cánh tả, các đối tác ở các nước bạn bè truyền thống, mà còn cần không ngừng mở rộng quan hệ với nhiều tổ chức, cá nhân, từ các tổ chức phi chính phủ, tổ chức xã hội, viện nghiên cứu, đảng phái, đến các học giả, chính trị gia và cá nhân mong muốn quan hệ hữu nghị, hợp tác với Việt Nam(9). Đồng thời, mở rộng phạm vi hoạt động, lực lượng tham gia, tạo sự đan xen về lợi ích và độ tin cậy, thúc đẩy quan hệ với nhân dân các nước. Củng cố sự tin cậy chính trị, mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác quan trọng và các nước bạn bè truyền thống, trên tinh thần bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau và phù hợp với luật pháp quốc tế… Mở rộng nội dung thông tin đối ngoại nhân dân, đa dạng hóa các hình thức và phương thức đối ngoại, trong đó chú trọng những nội dung đối ngoại có chiều sâu, như thông tin đối ngoại về các vấn đề lý luận chính trị…
Thứ tư, phát huy vai trò tích cực, có trách nhiệm, tăng cường sự tham gia rộng rãi, hiệu quả của các tổ chức nhân dân Việt Nam tại các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế, đóng góp phù hợp vào các nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế ứng phó với những thách thức toàn cầu đối với hòa bình, an ninh và phát triển trong khu vực và trên thế giới, thể hiện vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Triển khai hiệu quả công tác người Việt Nam ở nước ngoài, phát huy vai trò tích cực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong tăng cường quan hệ hữu nghị của Việt Nam với các nước trên thế giới.
Thứ năm, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ngày càng phát triển mạnh mẽ, cần nâng cao chất lượng nghiên cứu, dự báo tình hình khu vực, quốc tế phục vụ đắc lực cho hoạch định chính sách đối ngoại Việt Nam thông qua trao đổi, hợp tác với các kênh thông tin quốc tế; đồng thời, phát huy lợi thế của công nghệ số trong đổi mới nội dung, phương thức thông tin đối ngoại, ứng dụng thành tựu của công nghệ thông tin, truyền thông để tăng cường tuyên truyền thông tin tích cực, kịp thời về những chính sách đối nội, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đấu tranh hiệu quả với các luận điệu sai trái về Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động, khẳng định hình ảnh đất nước, con người Việt Nam thân thiện trong mắt bạn bè quốc tế.
Thứ sáu, coi trọng hiệu ứng cộng hưởng của cả ba trụ cột đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân để gia tăng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Kiện toàn, củng cố bộ máy, tăng cường và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại nhân dân của các đoàn thể và các địa phương, đặc biệt chú trọng tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, tăng cường đội ngũ cán bộ đối ngoại chuyên trách có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, kỹ năng đối ngoại, trình độ ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu hoạt động đối ngoại nhân dân trong tình hình mới. Tăng cường công tác tập huấn, thông tin cho đội ngũ làm công tác đối ngoại nhân dân.
Nhìn chung, công tác đối ngoại nhân dân đã có nhiều đóng góp quan trọng, hiệu quả vào thành công chung của mặt trận đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ mới. Với những thành quả nổi bật đã đạt được, với quyết tâm mạnh mẽ của Đảng, Nhà nước và các lực lượng làm đối ngoại nói chung, công tác đối ngoại nhân dân của Việt Nam trong thời gian tới sẽ tiếp tục đạt nhiều kết quả thực chất, hiệu quả, toàn diện, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
_____________________________________________
(1) Liên hoan hữu nghị nhân dân Việt Nam - Lào lần thứ III (năm 2012), thứ IV (năm 2017) lần lượt được tổ chức tại Việt Nam và Lào, nhân kỷ niệm 50, 55 năm quan hệ ngoại giao và 35, 40 năm ngày ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào; gặp gỡ hữu nghị và hợp tác nhân dân Việt Nam - Campuchia lần thứ III (năm 2012), thứ IV (năm 2017) lần lượt tại Việt Nam, Campuchia để chào mừng Năm hữu nghị Việt Nam - Campuchia và kỷ niệm 45, 50 năm quan hệ ngoại giao hai nước; tổ chức các đoàn chuyên gia Việt Nam tại Lào thăm Lào (bắt đầu từ năm 2010, các năm 2011, 2013, 2018, 2019), đoàn cựu chiến binh, công dân Lào từng kề vai sát cánh, che chở, giúp đỡ quân tình nguyện Việt Nam thăm Việt Nam (các năm 2012, 2017); chương trình “Ươm mầm hữu nghị” đối với sinh viên Campuchia đang học tập tại Việt Nam (bắt đầu triển khai từ năm 2012); kịp thời vận động, tự nguyện quyên góp ủng hộ nhân dân Lào khắc phục sự cố vỡ đập tại tỉnh Attapeu (năm 2018); hỗ trợ, quyên góp, ủng hộ trong công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19 (năm 2020)...
(2), (6), (9) Phan Anh Sơn, “Nâng cao hiệu quả hoạt động công tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới”, Tạp chí Cộng sản, số 1.016 (tháng 6/2023), tr. 108, 109, 111.
(3) Trong các cuộc vận động thu thập chữ ký kêu gọi giải trừ vũ khí hạt nhân của phong trào nhân dân Nhật Bản và thế giới gần đây, Tổ chức Hòa bình Việt Nam - thành viên của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam - đã làm đầu mối phối hợp với các tổ chức nhân dân, địa phương của Việt Nam thu thập được số lượng chữ ký lớn nhất trên toàn cầu (năm 2016 là 1,5 triệu/6 triệu chữ ký toàn cầu và năm 2020 là gần 1 triệu chữ ký).
(4) Phối hợp với Ủy ban Biên giới quốc gia, Nhà xuất bản Giáo dục và Nhà xuất bản Thế giới biên soạn, ấn hành và tái bản cuốn sách “Việt Nam và Biển Đông” bằng tiếng Việt (phát hành năm 2011, tái bản năm 2014 và năm 2017) và tiếng Anh (phát hành năm 2012, tái bản năm 2014 và năm 2017).
(5) Đây là một lĩnh vực đặc thù trong công tác đối ngoại nhân dân, bao gồm ba mặt công tác chính: 1- Vận động viện trợ phi chính phủ nước ngoài; 2- Tổ chức thực hiện; 3- Quản lý viện trợ và các dự án hợp tác và quản lý hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam. Trong đó, công tác vận động viện trợ và tổ chức thực hiện các dự án có tính chất là công tác đối ngoại nhân dân, còn công tác quản lý viện trợ và quản lý các tổ chức phi chính phủ nước ngoài mang tính chất công tác quản lý nhà nước.
(7) Xem: Long Phạm - Mỹ Lệ, “Đối ngoại nhân dân vì hòa bình, hữu nghị và hợp tác trong bối cảnh hiện nay”, Trang thông tin điện tử Liên hiệp các tổ chức hữu nghị thành phố Đà Nẵng, ngày 18-8-2023, https://dafo.danang.gov.vn/view.aspx?ID=13242.
(8) Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 34.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 19/11/2023
Bài liên quan
- Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
- Tính nhân văn của Đề cương về văn hóa Việt Nam - động lực xây dựng, phát triển văn hóa đất nước bền vững trong thời đại Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
Bài viết nghiên cứu về tác động của truyền thông xã hội đối với hoạt động báo chí hiện nay, tập trung vào sự thay đổi trong hoạt động sản xuất, phân phối tin tức và cấu trúc nội dung báo chí. Truyền thông xã hội đã trở thành một nguồn tin phong phú, đa chiều và nhanh chóng, làm thay đổi đáng kể cách thức thu thập và truyền tải thông tin. Tuy nhiên, tính xác thực của nguồn tin mạng xã hội vẫn là một thách thức, đòi hỏi báo chí phải chú trọng vào việc kiểm chứng và phản hồi thông tin một cách chính xác. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất báo chí cần phát triển nội dung chất lượng cao, tăng cường kỹ năng công nghệ số của phóng viên và xây dựng các nền tảng số riêng để giảm sự phụ thuộc vào truyền thông xã hội, đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy trong kỷ nguyên số.
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Chiều 31/10, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo sư, Tiến sỹ Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3).
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực không những góp phần đẩy mạnh phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng mà còn góp phần đảm bảo phúc lợi cho người lao động. Vì thế, trong quá trình hội nhập, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đầu tư phát triển nguồn nhân lực – yếu tố then chốt để Việt Nam đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển toàn diện, nhanh và bền vững. Nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của nguồn nhân lực, Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã có những chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và đã đạt được những kết quả tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Song, bên cạnh những thành tựu, vẫn con những hạn chế nhất định, vì vậy, cần xây dựng hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng yếu tố quyết định thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo lợi thế cạnh tranh của tỉnh hiện nay trong thời gian tới.
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đóng góp sâu sắc đối với sự phát triển lý luận của Đảng về quyền con người. Những quan điểm của Tổng Bí thư sẽ tiếp tục là nguồn cảm hứng và định hướng quan trọng cho các hoạt động về quyền con người trong thời kỳ mới.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
Theo thông tin từ Hội đồng chuyên môn bảo vệ sức khỏe cán bộ Trung ương, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sau thời gian lâm bệnh, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao, bệnh nặng, Đồng chí đã từ trần lúc 13 giờ 38 phút, ngày 19-7-2024, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Hưởng thọ 80 tuổi. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân” của Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Bình luận