Phê phán luận điệu “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “quyền con người là phi giai cấp”
Sự phi lý của luận điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”
Quyền con người (nhân quyền) là tổng hợp các quyền và tự do cơ bản để đánh giá địa vị pháp lý của cá nhân. Quyền con người và pháp luật luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, quyền con người là vấn đề quan trọng của mọi hệ thống pháp luật; khi thực tiễn lịch sử đã minh chứng quyền con người chỉ có thể ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật.
Quyền con người vốn là vấn đề thuộc lĩnh vực đạo đức, song trong bối cảnh tồn tại giai cấp đối kháng, quyền con người luôn bị một số quốc gia phương Tây chính trị hóa. Lâu nay, các nước phương Tây thường rêu rao cái gọi là “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “quyền lực nhà nước ở một quốc gia không được đàn áp nhân quyền”. Về thực chất, quan điểm này đã đối lập quyền con người với chủ quyền quốc gia. Họ lập luận một cách phi lý rằng, vấn đề quyền con người không thuộc công việc nội bộ của một nước.
Thậm chí, một số nước phương Tây còn quy chụp rằng: “Việc Việt Nam nhấn mạnh chủ quyền quốc gia cao hơn tất cả, trên thực tế là lấy danh nghĩa duy trì chủ quyền quốc gia để duy trì quyền lực thống trị của Đảng Cộng sản Việt Nam”(!).

Việc cho rằng “nhân quyền cao hơn chủ quyền” là hoàn toàn phi lý. Bởi lẽ, muốn hiện thực hóa được các quyền con người phải có các tiền đề, điều kiện nhất định. Điều kiện tiên quyết là đất nước phải được độc lập, chủ quyền quốc gia phải được tôn trọng theo luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc.
Thực tiễn lịch sử Việt Nam và nhiều nước trên thế giới trải qua đấu tranh giành độc lập, giữ vững chủ quyền dân tộc đã chứng minh, đất nước bị nô lệ thì người dân không có tự do, các quyền con người sẽ bị chà đạp nghiêm trọng. Do vậy, các dân tộc bị áp bức đã quyết tâm giành và giữ nền độc lập.
Tất yếu, chủ quyền quốc gia không tách khỏi nhân quyền và nhân quyền không thể cao hơn chủ quyền. Cho nên có thể khẳng định: Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người.
Mặt khác, để bảo đảm quyền con người, trước hết và chủ yếu thuộc trách nhiệm của mỗi quốc gia. Trách nhiệm có tính chất pháp lý này đã được Liên hợp quốc quy định trong các văn kiện nhân quyền quốc tế, chẳng hạn như: Nghị quyết 2625 của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 24/10/1970 đã đưa ra Tuyên bố về những nguyên tắc của Luật Quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, trong đó khẳng định các nguyên tắc, như nguyên tắc chủ quyền quốc gia, nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của các quốc gia, nguyên tắc không can thiệp vào những vấn đề thuộc thẩm quyền của các quốc gia khác.
Chính Liên hợp quốc cũng nhấn mạnh: “Không quốc gia nào, kể cả Liên hợp quốc, có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền quốc gia”. Xét cho cùng, trong luật pháp quốc tế, quốc gia giữ vị trí quan trọng nhất. Do vậy, “nhân quyền cao hơn chủ quyền” là một đòi hỏi phi lý.
Trên thế giới đã có nhiều nước lớn nhân danh “nhân quyền cao hơn chủ quyền” để can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, dẫn đến nhiều hệ lụy như bất ổn chính trị, xáo trộn sự ổn định xã hội, kinh tế không phát triển. Điều đó chỉ nhằm phục vụ lợi ích cho các thế lực cường quyền.
Hơn ai hết, mỗi người dân Việt Nam đều thấu hiểu độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là đòi hỏi hàng đầu trong việc bảo đảm và thực thi quyền con người. Bản chất của Nhà nước Việt Nam là nhà nước vì con người và bảo vệ quyền con người. Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, ngay sau khi giành được độc lập, quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp năm 1946 ghi nhận và sau đó tiếp tục được củng cố, mở rộng trong các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và 2013.
Điều 3 Hiến pháp năm 2013 đã hiến định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tiếp tục khẳng định: “Hoàn thiện cơ bản các cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội”.
Do vậy, quyền con người luôn cần phải được bảo vệ bằng chủ quyền quốc gia. Thực tiễn và cơ sở pháp lý đó không một ai, không một thế lực nào có thể bác bỏ được.
Không có cái gọi là “quyền con người là phi giai cấp” trên thế giới
Hiện nay, có một số nhà khoa học nhân danh “tự do học thuật” đã lớn tiếng rêu rao luận điểm “quyền con người là phi giai cấp” làm cho không ít người mơ hồ về vấn đề này. Thực chất, những người đưa ra luận điểm này cố tình đánh tráo khái niệm, đã “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” xa rời bản chất giai cấp công nhân; phá vỡ sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học trong nghiên cứu khoa học. Ý đồ sâu xa hơn, các “học giả” đưa ra luận điểm “quyền con người là phi giai cấp” nhằm phủ nhận quan điểm của Đảng ta về quyền con người.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, trong xã hội có phân chia giai cấp đối kháng, bản chất quyền con người và thực hiện quyền con người luôn mang tính giai cấp sâu sắc. Bởi lẽ, con người sinh ra vốn đã có đặc quyền, đó là quyền tự nhiên.
Các quyền này tồn tại dưới dạng những nhu cầu, do chính phẩm giá con người quy định. Nhưng để trở thành quyền, những nhu cầu ấy cần phải được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Song, pháp luật luôn gắn liền với nhà nước, luôn bị chi phối bởi các thể chế chính trị cụ thể. Cho nên, nội dung của pháp luật luôn nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Khi pháp luật thừa nhận quyền của giai cấp thống trị cũng đồng thời hạn chế quyền của giai cấp đối lập, không thể có quyền trừu tượng siêu giai cấp, quyền con người phi giai cấp chỉ là ảo tưởng.
Bên cạnh đó, sự tồn tại của giai cấp thống trị luôn gắn liền với sự tồn tại của xã hội. Nhằm bảo vệ địa vị thống trị và do kết quả đấu tranh giai cấp nên bất kỳ giai cấp thống trị nào cũng đều buộc phải thừa nhận những mức độ nhất định về quyền của các giai cấp khác. Sự phát triển của lịch sử nhân loại luôn khẳng định sự kế thừa và phát triển của các giai đoạn lịch sử về sau đối với giai đoạn trước, luôn vận động theo quy luật tiến tới những giá trị tiến bộ, văn minh, nhân đạo, nhân văn. Do vậy, tính giai cấp luôn gắn liền với tính nhân loại của quyền con người.
Trong phạm vi quốc gia, quan điểm giai cấp thể hiện ở các chính sách bảo vệ hệ thống chính trị và chế độ xã hội hiện hữu, bảo vệ lợi ích giai cấp cầm quyền và các giai cấp, tầng lớp xã hội đã đấu tranh bảo vệ xã hội đó. Trên phạm vi quốc tế, tính giai cấp của quyền con người được thể hiện trong cuộc đấu tranh giữa lực lượng cách mạng, tiến bộ với các lực lượng phản động, phản tiến bộ.
Trong thế kỷ 20, tính giai cấp của quyền con người được biểu hiện bằng cuộc đấu tranh giữa hệ thống tư bản chủ nghĩa với hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN). Hiện nay, cuộc đấu tranh này biểu hiện dưới hình thức thúc đẩy sự tiến bộ xã hội và đấu tranh chống lại chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của thế lực phản động đối với các nước đi theo con đường XHCN và độc lập dân tộc.
Trong xã hội Việt Nam, tính giai cấp của quyền con người thống nhất với tính nhân loại, tính phổ cập của quyền con người. Điều đó đã được thể hiện rõ trong các văn kiện pháp lý quan trọng như: Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013, cùng với hơn 13.000 văn bản quy phạm pháp luật. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã dành hẳn chương II để hiến định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp năm 2013 là dấu mốc quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam, vì Hiến pháp đề cập toàn diện các quyền con người và cách thức tổ chức, bộ máy bảo đảm và bảo vệ quyền con người.
Đến nay, Việt Nam đã là thành viên của hầu hết điều ước quốc tế chủ yếu về quyền con người, trong đó có hai công ước quốc tế về quyền con người năm 1966. Theo quy định của Luật Nhân quyền quốc tế, khi điều ước quốc tế có hiệu lực đối với các quốc gia thành viên thì quốc gia phải tận tâm thực hiện điều ước, theo nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện điều ước quốc tế.
Như vậy, ở Việt Nam, quyền con người của tất cả mọi người đều được tôn trọng và bảo đảm, không có sự phân biệt giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, giới tính. Điều 16 Hiến pháp năm 2013 hiến định: “1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Thực chất bảo đảm quyền con người ở Việt Nam nằm trong mục tiêu xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định nhất quán phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Cốt lõi của việc thực hiện và bảo đảm quyền con người là trong mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước luôn "lấy dân làm gốc”.
Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Xã hội XHCN là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng trong xã hội”.
Như vậy có thể khẳng định rằng, quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là giá trị chung của các dân tộc. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, quyền con người là một phạm trù lịch sử và biến đổi trong lịch sử; là kết tinh của xã hội loài người trên 5 phương diện: Tái sản xuất vật chất, tinh thần, con người, nhu cầu và ý thức.
Suy cho cùng, quyền con người gồm các quyền sống, quyền lao động và quyền tự do. Các quyền này thể hiện 3 phương diện cơ bản nhất của đời sống xã hội của con người: Con người trước hết phải được tồn tại (quyền sống); con người phải được hoạt động (quyền lao động) và con người phải được khẳng định, được phát triển (quyền tự do). Quyền con người gắn với nhà nước và pháp luật, giành lấy quyền con người là mục tiêu cơ bản của cách mạng XHCN.
Ngày nay, quyền con người được xem là thước đo sự tiến bộ và trình độ văn minh của các xã hội, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa. Đồng thời, quyền con người chứa đựng những giá trị chung toàn nhân loại, nhưng chỉ trong điều kiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; các quyền sống, quyền lao động, quyền mưu cầu hạnh phúc mới bảo đảm cho mỗi người và cho mọi dân tộc.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định bảo đảm quyền con người thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN ở nước ta, là trách nhiệm của hệ thống chính trị. Bảo đảm quyền con người của nhân dân Việt Nam, đồng thời tôn trọng quyền con người của các dân tộc khác nhằm thúc đẩy hòa bình, phát triển ở mỗi quốc gia và trên thế giới thông qua đối thoại, hợp tác quốc tế./.
Nguồn: Bài đăng trên báo Quân đội nhân dân điện tử ngày14/08/2023
Bài liên quan
- Nhận diện, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch về Công đoàn Việt Nam
- Đấu tranh phòng, chống các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng phản biện xã hội chống phá cách mạng Việt Nam
- Phát huy trách nhiệm của cấp ủy các cấp trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
- Đề cao sức mạnh văn hóa tinh thần, tăng "đề kháng", ngăn ngừa suy thoái về tư tưởng chính trị - Bài 3: Chung tay xây dựng “sức mạnh mềm” của dân tộc
- Đề cao sức mạnh văn hóa tinh thần, tăng "đề kháng", ngăn ngừa suy thoái về tư tưởng chính trị - Bài 2: Nhiễm virus văn hóa độc hại, phá bỏ tương lai, làm ô tạp văn hóa dân tộc
Xem nhiều
-
1
Mạch Nguồn số 66: LỜI HIỆU TRIỆU MÙA XUÂN
-
2
Mạch Nguồn số 68: LAN TỎA PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC TẠI HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
-
3
[Video] Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Động lực mới cho phát triển kinh tế”
-
4
Quản trị khủng hoảng truyền thông của các doanh nghiệp tổ chức sự kiện ở Việt Nam hiện nay
-
5
Mạch Nguồn số 65: NHÌN LẠI 2024 "CHUYỆN LÀNG, CHUYỆN NƯỚC"
-
6
Đổi mới phương pháp dạy và học các môn lý luận chính trị ở các trường đại học tại Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Giá trị lịch sử của những tác phẩm ảnh báo chí
Ảnh báo chí với đặc trưng cơ bản là tính chân thật khách quan góp phần tái hiện các khoảnh khắc có giá trị lịch sử. Nghiên cứu phân tích trường hợp các tác phẩm ảnh báo chí thế giới và Việt Nam để thấy đóng góp của ảnh báo chí vào sự phát triển của lịch sử, thông qua phản ánh mối quan hệ của con người với tự nhiên, con người với con người.
Nhận diện, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch về Công đoàn Việt Nam
Nhận diện, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch về Công đoàn Việt Nam
Trải qua gần một thế kỷ xây dựng và lớn mạnh, Công đoàn Việt Nam ngày càng khẳng định rõ vị trí, vai trò “là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động”, “đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động”. Thế nhưng, với mưu đồ phá hoại sự nghiệp cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch đã bịa đặt, xuyên tạc sự thật hiển nhiên về những thành tựu và đóng góp to lớn của Công đoàn Việt Nam. Bài viết nhận diện và phê phán các quan điểm sai trái, thù địch về Công đoàn Việt Nam, từ đó có những biện pháp đấu tranh, ngăn chặn, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng và hệ thống chính trị nước ta hiện nay.
Đấu tranh phòng, chống các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng phản biện xã hội chống phá cách mạng Việt Nam
Đấu tranh phòng, chống các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng phản biện xã hội chống phá cách mạng Việt Nam
Những năm qua, với tinh thần dân chủ, cởi mở, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các tầng lớp nhân dân đã phát huy vai trò phản biện xã hội, tạo nên một luồng sinh khí mới trong đời sống chính trị đất nước, hiện thực hóa quyền làm chủ, dân chủ trực tiếp của nhân dân trong thực tế. Tuy nhiên, trong dòng chảy chung ấy, vẫn có một số phần tử không hiểu, hoặc cố tình không hiểu về bản chất, mục tiêu của phản biện xã hội, chủ ý lợi dụng hoạt động này để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. Dù chỉ là thiểu số, song những luận điệu này cũng gây tác hại nhất định đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc nhận diện và đấu tranh làm thất bại những luận điệu phản động này là việc làm cấp thiết trong tình hình hiện nay.
Phát huy trách nhiệm của cấp ủy các cấp trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Phát huy trách nhiệm của cấp ủy các cấp trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Ðảng. Đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trong đó, cấp ủy các cấp là hạt nhân tiên phong, tập hợp, hướng dẫn và đi đầu. Bài viết phân tích vị trí, trách nhiệm của cấp ủy các cấp trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Từ đó, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của cấp ủy các cấp trong công tác này.
Đề cao sức mạnh văn hóa tinh thần, tăng "đề kháng", ngăn ngừa suy thoái về tư tưởng chính trị - Bài 3: Chung tay xây dựng “sức mạnh mềm” của dân tộc
Đề cao sức mạnh văn hóa tinh thần, tăng "đề kháng", ngăn ngừa suy thoái về tư tưởng chính trị - Bài 3: Chung tay xây dựng “sức mạnh mềm” của dân tộc
Văn hóa tinh thần có vai trò vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia, dân tộc và được ví như “sức mạnh mềm” trong thời kỳ phát triển cạnh tranh gay gắt. Nó giúp xác định, duy trì các giá trị, niềm tin, quy tắc đạo đức, pháp luật. Nó giúp thúc đẩy con người thay đổi ý thức, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy các giá trị tích cực, hình thành tư duy, nuôi dưỡng tâm hồn trong sáng, xây dựng nhân cách, biết tôn trọng người khác, phát triển kỹ năng giao tiếp và nhân cách toàn diện. Nói một cách đơn giản và dễ hiểu thì nếu xây dựng được nền tảng văn hóa tinh thần vững chắc và phong phú, giàu nhân văn, nhân ái sẽ tạo ra môi trường để con người, xã hội thể hiện bản thân, khám phá ý tưởng mới và phát triển các hình thức nghệ thuật, văn hóa mới.
Bình luận